Trước nhất, tôi nghĩ đến lời dạy của Đức Phật trong Luật tạng, vì các vị thanh tịnh Tỳ-kheo mà Đức Phật nói bốn pháp Ba-la-di và các chi phần còn lại của giới bổn. Từ khi Đức Phật thuyết pháp tại Lộc Uyển đến Vương Xá, rồi sang Xá Vệ, trong 12 năm đầu sau khi Ngài thành đạo, Đức Thế Tôn chưa thuyết giới. Từ năm thứ mười ba trở đi, vì bảo vệ các vị thanh tịnh Tỳ-kheo, Ngài mới chế định giới luật. Trong quá trình tu tập, khi chưa đắc Thánh quả phải nương tựa giới luật để tu học.
Sở dĩ trong giai đoạn đầu Đức Phật không chế giới là vì hội chúng lúc bấy giờ gồm các bậc Thánh Tăng, không ai phạm giới. Khi các Tỳ-kheo thanh tịnh, Đức Phật không đề cập giới luật. Vì tâm Tỳ-kheo thanh tịnh, không nghĩ đến việc ác, thì không cần đem ý tưởng về việc xấu ác gieo vào tâm thức họ. Như Duy-ma-cật nói: “Không nên đem đồ ô uế mà bỏ vào bình bát báu”. Cũng vậy, với các vị Thánh Tăng, các vị thanh tịnh Tỳ-kheo do tâm không ô nhiễm nên giới thể thành tựu.
Giáo hội chúng ta ngày nay, cũng phải y cứ giới luật để làm hàng rào, bảo vệ cho Tăng đoàn, ngăn cản những kẻ tặc tâm xuất gia. Một vị Tỳ-kheo phải hạ quyết tâm cắt đứt phiền não, trần lao và nghiệp chướng để thành tựu bản thể thanh tịnh của Tỳ-kheo, trong đó giới luật là căn bản cho lộ trình tu tập đó.
Chư vị thanh tịnh Tỳ-kheo luôn sống trong Chánh pháp, y theo Bát chánh đạo. Lúc đời sống đầy đủ các chi phần của Thánh đạo thì không cần nhắc nhở. Tuy nhiên, khi uy tín và ảnh hưởng của Phật giáo sâu rộng, theo đó sẽ xuất hiện những điều chướng ngăn Thánh đạo. Đó là có người vì mục đích khác chứ không vì cầu Chánh pháp mà gia nhập Tăng đoàn. Để bảo vệ các Tỳ-kheo thanh tịnh, Đức Phật chế định giới để ngăn chặn vấn nạn ác Tỳ-kheo – những người gia nhập Tăng đoàn không vì mục đích cần cầu Chánh pháp, mà có thể vì mưu cầu y thực, hưởng thụ...
Trên nguyên tắc giới luật, người xuất gia chỉ được thọ dụng ba y một bát, không được giữ tiền, không kinh doanh và tạo mãi. Chính những nguyên tắc sống tối giản về đời sống vật chất này được quy định rõ ràng trong giới luật sẽ loại bỏ những người tặc tâm xuất gia, đồng thời bảo vệ các bậc Thánh Tăng và danh dự Tăng đoàn.
Giáo hội chúng ta ngày nay, cũng phải y cứ giới luật để làm hàng rào, bảo vệ cho Tăng đoàn, ngăn cản những kẻ tặc tâm xuất gia. Một vị Tỳ-kheo phải hạ quyết tâm cắt đứt phiền não, trần lao và nghiệp chướng để thành tựu bản thể thanh tịnh của Tỳ-kheo, trong đó giới luật là căn bản cho lộ trình tu tập đó.
Muốn trở thành thanh tịnh Tỳ-kheo thì phải cắt bỏ tham. Nếu còn chìm đắm trong ngũ dục thì không thể thành tựu Tỳ-kheo thanh tịnh. Nếu còn mắc kẹt trong những ham muốn trần tục thì khó có thể thăng tiến trong tu học. Người tu phải thường xuyên đọc giới bổn để giữ gìn giới luật, nhằm bảo vệ tự thân và bảo vệ Tăng đoàn.
Không bảo vệ được Tỳ-kheo thanh tịnh thì Phật pháp sẽ không còn, vì giới luật còn thì Phật pháp mới còn, mà giới luật chỉ tồn tại trong hàng thanh tịnh Tỳ-kheo. Khi chúng ta quán sát kỹ, chúng ta phải tự nỗ lực sửa đổi, một lòng tu tập để đoạn trừ phiền não.
![]() |
Một vị Tỳ-kheo phải hạ quyết tâm cắt đứt phiền não, trần lao và nghiệp chướng để thành tựu bản thể thanh tịnh của Tỳ-kheo, trong đó giới luật là căn bản cho lộ trình tu tập đó |
Trên bước đường tu, cá nhân tôi có may mắn được học giới luật với Hòa thượng Thích Thiện Hòa. Học giới luật, không phải chỉ học giới bổn suông mà học tinh thần giới luật thể hiện qua đời sống và hành trì của các vị tôn túc lớn. Hòa thượng Thích Thiện Hòa từng dạy: “Con người còn ba thứ căn bản là tham, sân, si. Khi sơ tâm xuất gia, ba yếu tố này còn rất nhiều, do đó phải tự nhận biết, khi nào nó khởi lên phải nhận diện và không làm theo sự xúi giục của chúng, đừng làm theo sở thích, nhất là sự thích thú quá mức bởi đó là biểu hiện của lòng tham. Chặn đứng được lòng tham có nhiều lợi ích, vì tham sẽ dẫn chúng ta vào chỗ chết”.
Vào thập niên 1950, Phật học đường Nam Việt còn nghèo đói, điều kiện sinh hoạt đời sống thiền môn còn nhiều khó khăn. Tôi nhớ lúc đó có một Phật tử từ Trà Ôn lên chùa Ấn Quang, chỉ mang theo ít nấm rơm duy nhất – một phẩm vật quý, để cúng cho Hòa thượng Thiện Hoa.
Hòa thượng dạy tôi mang xuống nhà bếp nhờ nấu thành tám chén cháo để cúng cho quý thầy trong Ban Giám đốc. Khi đó, tôi làm thị giả, mang chén cháo lên cho Hòa thượng Thiện Hoa, ngài nhìn tôi với ánh mắt từ ái rồi nói: “Phần này, thầy cho con”. Ngài biết học tăng thời bấy giờ thiếu thốn, lại trong tuổi đang lớn, nên đã nhường phần của ngài cho thị giả nhỏ là tôi.
Khi tôi vừa bưng chén cháo ra khỏi phòng Hòa thượng, thì gặp một chú Sa-di khác, tôi nhớ tới việc làm của Hòa thượng mà tự nguyện nhường cho huynh đệ của mình trong niềm hoan hỷ.
Trên bước đường tu, tinh thần giới luật, đạo hạnh là ở những hành xử bình thường, quan trọng là làm sao để giới luật thực sự hiện hữu trong đời sống hàng ngày của chúng ta.
An cư kiết hạ là thời gian quý báu và rất cần thiết, do đó chúng ta mỗi mùa an cư phải cố gắng xông ướp giới luật, tâm thanh tịnh thì thân, khẩu, ý mới thanh tịnh mà tiếp nhận giáo pháp, để lợi lạc cho tự thân và góp phần bảo vệ Tăng đoàn, trang nghiêm Giáo hội. Còn không thực hành được như vậy thì chỉ là mượn áo Như Lai để mưu cầu theo tham vọng cá nhân, không đem lại an lạc cho tự thân và đại chúng mà còn làm tổn hại thanh danh của Tăng, giảm uy tín của Giáo hội.
Khi sơ tâm, phải đọc kỹ, suy tư nhiều để áp dụng giới bổn vào đời sống cho đúng đắn, để càng tu thì càng sáng. Khi đã lên hàng giáo phẩm, chúng ta càng trầm tĩnh, bởi gặp chuyện bất như ý mà còn nổi nóng, còn sân thì chứng tỏ rằng không tu tập tinh cần, chưa trừ bỏ được tham, sân. Gặp chuyện mà đỏ tai thì hỏng, dù chỉ là bộc phát nhẹ nhàng, vi tế.
Trong mỗi mùa an cư, chúng ta cần phải suy xét, ứng dụng từng khoản một trong Luật tạng, đưa tinh thần đó vào đời sống, để được trưởng thành hơn; mỗi ngày mỗi tiến bộ, tâm thanh tịnh thì mới huân tập giới thể thanh tịnh.
An cư kiết hạ là thời gian quý báu và rất cần thiết, do đó chúng ta mỗi mùa an cư phải cố gắng xông ướp giới luật, tâm thanh tịnh thì thân, khẩu, ý mới thanh tịnh mà tiếp nhận giáo pháp, để lợi lạc cho tự thân và góp phần bảo vệ Tăng đoàn, trang nghiêm Giáo hội. Còn không thực hành được như vậy thì chỉ là mượn áo Như Lai để mưu cầu theo tham vọng cá nhân, không đem lại an lạc cho tự thân và đại chúng mà còn làm tổn hại thanh danh của Tăng, giảm uy tín của Giáo hội.
Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quảng
(Phước Hiền phiên tả từ Đạo từ tại kỳ Bố-tát đầu tiên trong mùa an cư năm Ất Tỵ ở Việt Nam Quốc Tự)