Căn bệnh ấy không biểu hiện trên thân xác, nhưng lại ngấm sâu vào từng ý nghĩ, từng nhịp thở, khiến ta ngày đêm khắc khoải, ưu tư, để rồi dần dà, ta vô tình đẩy chính mình vào nấm mồ của tủi hận. Cố nhiên, những phiền não hay bất an này sẽ chẳng thể nào được chuyển hóa, nếu ta cứ mãi dừng lại ở việc than trời trách đất, hay khẩn cầu sự thương xót từ một ai khác. Thế thì, làm cách nào để thoát khỏi vòng xoáy thăng trầm tục lụy, trả lại cho bản thân niềm hạnh phúc vốn có thuở ban sơ. Niềm hạnh phúc này không thể tìm thấy nơi các pháp hữu lậu mà chỉ có thể nhận được ngay nơi tự tâm chúng ta.
Trong kinh Pháp cú số 21 và 22, Đức Phật dạy:
“Không phóng dật, đường sống
Phóng dật là đường chết
Không phóng dật, không chết
Phóng dật như chết rồi”.
“Biết rõ sai biệt ấy
Người trí không phóng dật
Hoan hỷ, không phóng dật
An vui hạnh bậc Thánh”.
Là người học Phật, chúng ta biết rằng sinh tử là việc lớn của đời người, mục đích tu tập cũng không ngoài việc chấm dứt câu chuyện khổ đau này. Nói chuyện tử sinh, không phải để có ra các thứ lo lắng, bất an rồi từ đó rơi vào tâm lý bi quan, yếm thế; mà nhắc đến việc sống chết để kích phát sự tinh tấn tu tập, kể chuyện sinh tử để chỉ ra cái bất tử, bàn về sinh diệt để thấy được vô sinh. Vậy nên, mỗi chúng ta phải hiểu và hành trì cho thấu đáo để thấy ra những vấn đề mấu chốt thông qua những lời dạy của Đức Thế Tôn, cụ thể là thấy ra nguyên nhân khiến chúng ta đi trong sinh tử, phương pháp hành trì để vượt thoát sinh tử? Hiểu được nguyên nhân cũng như vấn đề cốt lõi, chúng ta sẽ dễ dàng lấy đó làm cơ sở y cứ trong công phu tu tập, xa hơn là thành tựu các phẩm hạnh trong sự nghiệp tự lợi và lợi tha.
Qua lời dạy của Đức Phật, chúng ta thấy rõ: chính tâm phóng dật, buông lung và dính mắc nơi các pháp hữu lậu là nguyên nhân chủ yếu đưa chúng ta vào trong vòng luân hồi. Để vượt thoát, không có con đường nào khác ngoài việc hành trì pháp “không phóng dật”. Cụ thể hơn, là thực tập “phòng hộ tâm”.
Trong bài kinh Phòng hộ tâm kinh số 1 có đoạn chép:
“Một thời Đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: ‘Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Khi đã tu hành một pháp, quảng bá một pháp rồi, liền được thần thông, các hành tịch tĩnh, được quả Sa-môn, đến Niết-bàn giới. Một pháp đó là gì? Đó là hành không phóng dật. Thế nào là hành không phóng dật? Là phòng hộ tâm. Thế nào là phòng hộ tâm? Ở đây, Tỳ-kheo thường thủ hộ tâm khỏi pháp hữu lậu”.
Thông qua đây, ta lại càng chắc rằng việc thực hành pháp không phóng dật là điều quan trọng khi tâm không phóng dật cũng đồng nghĩa với việc phòng hộ tâm khỏi các pháp hữu lậu hay nói một các cụ thể hơn là pháp hữu lậu mất lực chi phối đối với chúng ta, cụ thể ngay khi tâm không còn phóng dật tức là tâm không khởi niệm vọng tưởng, do không vọng tưởng nên không dính mắc hay chạy theo cảnh duyên; do đó, cảnh duyên không thể chi phối làm cho chúng ta bất an hay lo lắng mà trái lại cho chúng ta một nội lực kiên cố, trí lực vững vàng, diệu lực không thể nghĩ bàn giúp chúng ta vượt thoát, tự tại trên tất cả cảnh.
Tuy nhiên, tâm chúng sinh thường hay tán loạn, chạy theo gặm nhấm trên nền tảng pháp hữu lậu để tìm kiếm niềm vui. Việc phóng tâm ấy khiến ta dán chặt vào muôn cảnh, muôn duyên để rồi từ đó dấy khởi vô số vọng niệm, tạo điều kiện cho chính chủ nhân có thêm tư liệu và cảm xúc để viết tiếp câu chuyện mừng, thương, giận, ghét trong chính quyển nhật ký sinh tử của mình. Không phải ngẫu nhiên mà trong hội Pháp hoa, Đức Phật ví chúng sinh không khác gì gã cùng tử lang thang đây đó, quên mất mình là con trưởng giả, sở hữu cả một gia tài kết xù vô giá, mà chấp nhận một đời sống cơ cực, bần hèn. Ngẫm lại, thật không khỏi bùi ngùi: Vì cớ sao Phật lại nói “trúng” đến vậy! Dường như Đức Phật đang nói mình thì phải?
Đã bao giờ ta chịu dừng lại để quán xét xem mình là gì trong cuộc đời này? Hay ta chỉ là mải miết đeo đuổi những danh vọng phù hoa, chạy theo các chuẩn mực rườm rà mà xã hội hiện thời cho là “có gu”, là “bắt kịp thời đại”? Cứ thế, ta vô tình chấp nhận một thân phận nổi trôi, nhận lấy những cù cặn, bon chen của thế gian để tiếp tục phiêu lãng về miền viễn xứ mênh mang, vô định.
Nhưng! May thay, chúng ta vẫn còn có Phật, còn có chư vị Tổ sư, thiện hữu tri thức trong đời. Các Ngài đã có mặt đúng lúc, kịp thời để an ủi những đứa trẻ thơ dại như chúng ta, đồng thời chỉ ra một con đường sáng để giải thoát, hay chí ít là gầy dựng một niềm tin để cho hạng sơ cơ chúng ta vững lòng tu tập. Như lời Thiền sư Pháp Loa dạy trong Thượng thừa Tam học khuyến chúng phổ thuyết:
“Trong 24 giờ, ngoài dứt các duyên, trong tâm không dấy động. Tâm không dấy động nên cảnh đến vẫn an nhàn. Mắt không vì cảnh khởi phân biệt, thức không vì pháp trần mà dính mắc. Ra vào không giao thiệp nên gọi ngăn dừng. Tuy nói ngăn dừng mà chẳng phải ngăn dừng. Nên biết tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như thế.”
Ngài nhấn mạnh trước hết là phải “dứt hết các duyên bên ngoài”. Vậy, chúng ta thấy ra điều gì thông qua lời dạy này? Việc tu hành có phải chăng là dẹp bỏ hết mọi thứ mà ta cho là dính mắc? Như khi ta dính mắc vào tiền tài thì dẹp tiền tài, dính vào công việc thì bỏ luôn công việc, vậy khi ta dính mắc vào… hư không, thì phải làm sao để dẹp bỏ đây? Pháp tu này xem ra khó nhằn! Chấp vào cái có hình tướng thì họa may ta còn dẹp được, còn đằng này dính vào cái không hình không tướng thì sao dứt được? Do đó, nếu ta hiểu theo kiểu “hễ còn duyên là phải dẹp bỏ”, thì dù có hành trì suốt đời cũng khó mà đạt kết quả, lại dễ rơi vào cực đoan, tiêu cực và sai lệch với Chánh pháp. Và nếu thật sự phải “dẹp bỏ hết các duyên” mới gọi là tu, thì đó là điều bất khả vì duyên không thể dứt hết, cảnh không thể không có. Do vậy, việc “dứt hết các duyên” cần được hiểu là không dính mắc, không can thiệp vào các duyên; tuy nhiên, cũng không phải là sự gò ép hay kiềm chế trong tâm ý, “cố cho được” không dính mắc như thế là tâm đang kiềm đè, dễ gây ra trạng thái căng thẳng, không phải là diệu kế lâu dài.
Trái lại, buông xuống tất cả khái niệm, trả lại tâm rỗng lặng. Lúc này, tuy không loạn động mà vẫn hằng sáng biết rõ ràng. Cái biết này không phải có ra từ phân biệt dựa trên cảnh duyên sinh diệt, mà là liễu biệt đối với tất cả pháp, tức cái biết của trí tuệ, không phải theo tình thức nên không bị cảnh duyên kéo lôi. Thực tiễn, ngay khi tâm an tịnh, sáng biết khi đối trước cảnh như: Đưa cành hoa lên liền rõ biết là cành hoa, khi hạ xuống, vẫn rõ biết như vậy. Cái biết này không bị cành hoa chi phối, cũng không phụ thuộc vào cành hoa có hay không mà là vốn tự nơi mình rõ suốt. Khi đã sống thuần với cái tâm không dao động, dừng lại việc chạy theo cảnh, cũng đồng nghĩa với việc “hành không phóng dật” hay “hàng phục tâm” một cách có hiệu quả. Nói rõ hơn, khi nào chúng ta thực sự sống bằng tự tánh giác sáng không mê là đang hàng phục tâm; được như vậy thì cho dù cảnh có đến hay đi cũng không thể làm ta bận lòng, mà trái lại giữa trong đời sống tấp nập mà ta vẫn có được an lạc, hòa chung bao cảnh bộn bề mà ta vẫn như nhiên, bình thản. Siêu xuất hơn là như lời người xưa nói: “Ta-bà tức Tịnh độ”, “Phiền não tức Niết-bàn”. Cái hạnh phúc đích thực không phải do lánh đời mà có được, mà là ngay khi tâm tịnh tức Phật độ tịnh, như thế mới thật sự là rốt ráo an lạc như lời Đức Phật dạy:
“Người hằng tu thiền định,
Thường kiên trì tinh tấn.
Bậc trí hưởng Niết-bàn,
Ðạt an tịnh vô thượng.”
“Nỗ lực, giữ chánh niệm,
Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp,
Ai sống không phóng dật,
Tiếng lành ngày tăng trưởng.”
(Pháp cú số 23,24)