GN - Cả hai hệ thống giáo lý Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền đều đề cao vai trò và tầm quan trọng của bố thí, vì đó là pháp hành đầy đủ ý nghĩa tự lợi và lợi tha.
Đầy đủ ý nghĩa tự lợi và lợi tha
Về lợi tha, bố thí mang lại niềm an ủi, sự lợi lạc cho chúng sinh trong hiện tại và tương lai. Bố thí (gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí) xuất phát từ lòng từ bi, là thực hiện bổn hoài cứu khổ ban vui, hạnh nguyện độ sinh của chư Phật.
Lòng từ cảm hóa - Ảnh minh họa
Ngay từ buổi đầu giáo đoàn mới thành lập, Đức Phật đã dạy: “Hãy ra đi, các Tỳ-kheo, đem sự tốt đẹp lại cho nhiều người, đem hạnh phúc đến cho nhiều người. Vì lòng từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại” (Đức Phật và Phật pháp - Nàrada, Phạm Kim Khánh dịch). Đây được xem là thông điệp của lòng từ bi cứu khổ ban vui. Ngày nay chư Tăng và hàng Phật tử tại gia là những người thừa hành, kế tục sự nghiệp độ sinh của Đức Phật vẫn luôn ghi nhớ và thực hành thông điệp từ bi đó.
Về tự lợi, kinh Tăng chi bộ, Đức Phật dạy: “Người có bố thí, khi được làm một vị trời hoặc được làm người đều vượt qua người không bố thí trên năm phương diện, đó là thọ mạng, nhan sắc, an lạc, danh xưng, tăng thượng” (chương V, phẩm Sumanà); và “Có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí không với ý nghĩ “ta sẽ hưởng thọ cái này ở đời sau”, chỉ bố thí với ý nghĩ “lành thay sự bố thí”. Vị ấy bố thí để trang nghiêm tâm. Do bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Phạm chúng. Khi nghiệp lực đoạn tận, thần lực, danh tiếng và uy quyền đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này” (chương VII, phẩm Tế đàn). Từ đó cho thấy, pháp bố thí mang lại cả phước báo hữu lậu và vô lậu. Nếu bố thí với tâm chấp thủ thì được phước báo hữu lậu. Nếu bố thí với tâm vô cầu, vô trụ chấp thì được phước báo vô lậu.
Giáo lý Phật giáo Bắc truyền xem bố thí là một trong sáu hạnh căn bản không thể thiếu của người tu Bồ-tát đạo (Lục độ hay Lục ba-la-mật). Kinh Hoa nghiêm nói: “Bồ-tát là nhà đại thí chủ, có bao nhiêu của cải bình đẳng thí cho chúng sinh mà không hối tiếc, chẳng mong quả báo, chẳng cầu danh vọng, chẳng cầu sinh về chỗ tốt hơn, chẳng cầu lợi dưỡng. Bồ-tát chỉ muốn cứu độ tất cả chúng sinh, muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh, muốn học theo bổn hạnh của các Đức Phật, muốn thọ trì bổn hạnh của các Đức Phật và muốn khiến tất cả chúng sinh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo”.
Ý nghĩa và giá trị của pháp bố thí
Về phương diện cá nhân: Bố thí là gieo nhân duyên lành để tạo quả phúc cho hiện tại và tương lai. Kinh Tăng chi bộ II, Đức Phật dạy: “Có năm lợi ích của bố thí: được nhiều người ưa thích, mến mộ; được thiên nhân và các bậc chân nhân thân cận; tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi; không có sai lệch pháp của người gia chủ; khi thân hoại mạng chung được sinh lên cõi lành, thiên giới”.
Kinh Phân biệt nghiệp báo cũng dạy: “Thường vui tu trí tuệ mà chẳng tu bố thí, đời sau được thông minh nhưng nghèo túng không của cải; chỉ vui tu bố thí mà chẳng tu trí tuệ, đời sau được giàu sang nhưng chẳng biết gì; Bố thí và trí tuệ đều song tu, đời sau giàu sang lại có trí tuệ. Cả bố thí và trí tuệ đều chẳng tu, nhiều kiếp ngu si lại nghèo khó”.
Bố thí là một phương tiện thực hành hạnh xả ly, chuyển hóa tâm tham lam, vị kỷ để dần dần đạt đến tinh thần vô ngã. Nếu thực hành bố thí đúng pháp như Đức Phật đã dạy, người tu học Phật sẽ thực chứng vô ngã.
Từ thiện, bố thí là pháp tu nhằm nuôi dưỡng và phát triển lòng từ bi, nền tảng căn bản của Bồ-tát đạo. Hành giả tu học Phật hướng đến giác ngộ, giải thoát, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề phải trải qua quá trình hành Bồ-tát đạo trong đó có việc cứu độ chúng sinh. Những câu chuyện về tiền thân Đức Phật được ghi lại trong kinh Bổn sinh (Jàtaka) cho biết, trong vô lượng kiếp khi còn hành Bồ-tát đạo, Đức Phật đã dấn thân phụng sự đạo pháp và chúng sinh, từng bố thí tài sản, sự nghiệp, vợ con, thậm chí cả thân mạng để làm lợi ích cho chúng sinh. Đức Phật dạy trong kinh Niết-bàn như sau: “Đại từ đại bi gọi là Phật tánh. Từ tức Như Lai, Như Lai tức từ”. Tâm từ bi là tâm Phật, vậy muốn trở thành Phật không thể không có tâm từ bi.
Hành động từ thiện, bố thí cứu khổ ban vui tạo nhân duyên lành với tất cả chúng sinh, cởi mở mọi oán kết trong hiện đời và vô lượng kiếp quá khứ, từ đó có được nhân duyên hóa độ làm lợi lạc mọi loài. Ngay cả Đức Phật cũng không thể hóa độ người không có nhân duyên với Ngài (Phật hóa hữu duyên nhơn), vì thế việc “quảng kết thiện duyên” thông qua các việc làm từ thiện, tài thí, pháp thí và vô úy thí mang ý nghĩa hết sức quan trọng.
Luận Đại trượng phu viết: “Đem của bố thí làm cho chúng sinh mến, đem pháp bố thí thường được thế gian kính trọng. Thí của được kẻ ngu mến, thí pháp được người trí trọng, thí của phá trừ cái nghèo cùng về của, thí pháp phá trừ cái nghèo cùng về công đức. Hai món thí này ai chẳng kính trọng. Cho của là cho vui hiện tại, cho pháp là cho vui Niết-bàn tương lai”. Lời dạy này cho thấy việc hành thiện, bố thí bao hàm cả ý nghĩa tự lợi và lợi tha.
Về phương diện xã hội, chúng sinh: Hoạt động từ thiện hay bố thí mang lại an vui, lợi lạc cho chúng sinh, góp phần giảm thiểu những khó khăn trong đời sống, giảm thiểu niềm đau nỗi khổ. Những việc làm này vừa có giá trị đối với đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Các hoạt động thiện nguyện thông qua việc quan tâm, chia sẻ sẽ xóa bớt khoảng cách giàu nghèo, sự chênh lệch trong đời sống xã hội, và đặc biệt là giúp con người gần nhau hơn trong mối tương quan xã hội.
Khi những cá nhân thoát khỏi đói nghèo, thoát khỏi ngu dốt do mù chữ, thiếu hiểu biết, và khi họ biết sống lương thiện, có đạo đức thì xã hội không còn gánh nặng về trật tự, trị an do vấn đề bạo động và tệ nạn xã hội gây nên. Đó là nguyên lý duyên sinh: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt, do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt; Do cái này sinh nên cái kia sinh, do cái này diệt nên cái kia diệt” (Kinh Phật tự thuyết - Tiểu bộ kinh I). Mỗi cá thể có quan hệ cộng sinh, cộng tồn với cá thể khác, với cộng đồng, xã hội, quốc gia và thế giới. Bất ổn ở chỗ này sẽ sinh bất ổn ở chỗ khác và ngược lại sự bình ổn, hưng thịnh ở phương diện này sẽ kéo theo sự bình ổn, hưng thịnh ở phương diện khác.
Cũng tương tự, trong ý nghĩa “Pháp giới trùng trùng duyên khởi”, theo nhân sinh quan, thế giới quan của kinh Hoa nghiêm thì mọi sự vật hiện tượng trong đó có con người và muôn loại chúng sinh đều có các mối tương quan mật thiết, thực chất là ta có trong mỗi chúng sinh và mỗi chúng sinh có trong ta, do đó độ chúng sinh cũng chính là tự độ. Luận Đại trượng phu có nói: “Thương chúng sinh tức là thương mình vậy”.
Trong đời sống thế tục, một xã hội, một quốc gia bất ổn về chính trị sẽ dẫn đến chiến tranh, nội loạn. Bất ổn về kinh tế, đói nghèo sẽ dẫn đến trộm cướp, mại dâm, lừa đảo. Văn hóa, đạo đức suy đồi sẽ dẫn đến sự sa đọa trong lối sống, gia đình và xã hội bất ổn, nhiều tệ nạn phát sinh. Khủng hoảng kinh tế, đời sống xã hội bất ổn, người dân long đong khốn khổ có thể dẫn đến bất ổn chính trị. Đó là do mọi sự vật tương quan tương duyên với nhau mà sinh khởi. Chỉ có sự san sẻ, chia sớt, chỉ có sự hy sinh, cống hiến, phụng sự chúng sinh trên tinh thần vô tư không vụ lợi, trên tinh thần từ bi, bình đẳng, vô ngã, vị tha mới thiết lập được xã hội bình ổn và an vui hạnh phúc.
Tóm lại, pháp hành bố thí mang lại lợi lạc cho đời sống cá nhân và xã hội ngay trong hiện tại và cả tương lai, đời này và đời sau. Dù là người xuất gia hay tại gia đều cần tích cực thực hành hạnh bố thí. Đối với người hành thiện tu phước còn tâm trụ chấp, còn mong cầu phước báo thì bố thí mang lại cho họ phước báo hữu lậu, đồng thời giúp họ trau dồi lòng thương yêu, tâm hạnh vị tha. Còn đối với người xem bố thí như một pháp hành để tu tập tâm, huân tu công đức, phát triển lòng từ bi, thực chứng vô ngã pháp thì bố thí mang lại phước báo vô lậu cho người ấy.