Từ đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) với những giá trị, đường hướng tỏ rõ vai trò trong phạm vi quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa; tích cực giao lưu và hội nhập quốc tế trong các cơ chế đa phương, song phương của Phật giáo thế giới. Chính từ nhu cầu thực tiễn, đáp ứng Phật sự, nêu cao trọng trách xã hội, đóng góp trong công tác đối ngoại nhân dân, đã và đang đặt ra những yêu cầu đối với việc nâng cao vai trò và vị thế đối ngoại Phật giáo, phù hợp với hướng phát triển trên phạm vi toàn cầu, đóng góp tích cực cho đối ngoại Việt Nam.
Cho nên, bài viết này đề cập từ đóng góp thực tiễn trong giai đoạn khó khăn ban đầu, với vai trò Trưởng ban Phật giáo Quốc tế đầu tiên của Trưởng lão Thích Minh Châu, đến những điều kiện cần và đủ để làm nền tảng định hướng đối ngoại của GHPGVN trong thời kỳ hội nhập, góp phần xây dựng đất nước ngày càng bền vững trong xu thế mới.
1. Từ đóng góp thực tiễn trong giai đoạn khó khăn với vai trò Trưởng ban Phật giáo Quốc tế đầu tiên của GHPGVN
1.1. Bối cảnh chung
Từ 1992, hiệu năng của chính sách đổi mới của Việt Nam đã được triển khai mạnh mẽ. Thắng lợi về kinh tế, chính trị cũng như những thành quả về các mặt xây dựng và phát triển đất nước, trong đó có sự đóng góp tích cực của GHPGVN, càng chứng tỏ sự đồng tâm nhất trí giữa nhân dân và nhà nước; đồng thời cũng nêu cao uy tín của Giáo hội. Mặt khác, chính sách mở rộng ngoại giao với các nước trên thế giới; sự đoàn kết, hợp tác với các nước trong khu vực, cụ thể là khối ASEAN mà Việt Nam là thành viên, ngày càng tốt đẹp. Cho nên, trong tinh thần hòa hợp đoàn kết, PGVN đã đề ra chương trình hoạt động của Giáo hội “phù hợp với tâm tư nguyện vọng của Tăng, Ni Phật tử Việt Nam tạo thành một sức sống mãnh liệt và là nguồn cổ vũ lớn lao cho Tăng, Ni, Phật tử trong cũng như ngoài nước tin tưởng vào chủ trương và đường lối lãnh đạo của Giáo hội, góp phần làm cho Giáo hội ngày càng trang nghiêm, phát triển”(1). Với tinh thần hòa hợp, gắn bó với đất nước độc lập, Tăng, Ni PGVN đã vững bước đi lên trong lòng dân tộc, lớn mạnh theo uy tín và có ảnh hưởng tốt với cộng đồng Phật giáo quốc tế.
1.2. Hoạt động đối ngoại nhiệm kỳ III (1992-1997)
1.2.1. Trao đổi các thông tin, tài liệu, văn thư hữu nghị
Liên hệ với Trung tâm Quốc tế ABCP và các Trung tâm Quốc gia ABCP như Nhật, Nga, Mông Cổ, Sri Lanka, v.v., bàn thảo, góp ý về cơ cấu tổ chức, chương trình hoạt động, thông tin Phật sự, đóng góp các tài liệu, bài viết về hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân, giải trừ quân bị, đạo đức xã hội, đạo đức môi sinh.
Thư từ hữu nghị với Hội Phật Quang Sơn, Hội Phật giáo Đồng tu ở Đài Loan để trao đổi kế hoạch đào tạo Tăng, Ni, về khả năng hợp tác giáo dục Phật giáo; thư từ hữu nghị với Đại học Delhi Ấn Độ về việc du học các cấp cao học, tiến sĩ của Tăng, Ni sinh Việt Nam tại Ấn Độ. Các văn thư chỉ đạo về học tập, sinh hoạt được gửi đến đều đặn cho các Tăng, Ni nghiên cứu sinh Việt Nam ở Ấn Độ; văn thư hữu nghị với Phật giáo Sri Lanka, cụ thể là Trung tâm ABCP quốc gia Sri Lanka, Hội Phật tử thế giới của Đức Như Lai Tối Thắng (WBSTF) và Hội Phật giáo châu Á; văn thư hữu nghị, trao đổi ý kiến, sách báo Phật học với Trung tâm ABCP Nhật Bản, với Đại học Aichi (Nagoya), với Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Văn hóa Nanjan ở Nagoya; văn thư hữu nghị, bàn thảo chương trình Hòa thượng với Đại học Mahachulalongkorn ở Bangkok, Thái Lan, Hệ phái Bắc tông gốc Việt Nam ở Thái Lan, Hệ phái Anamikaya có gốc sáng lập là các nhà sư Việt Nam.
1.2.2. Đón tiếp các đoàn khách nước ngoài, các đại diện tổ chức Phật giáo thân hữu
Đại diện các Trường Đại học Gotigen, Dussendorf ở Đức thường viếng thăm Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam bàn hợp tác nghiên cứu về đạo đức, môi sinh, về các đặc điểm văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo. Đại diện tổ chức Heinrich Boll Foundation Đức quốc, cơ quan Di trú của Bỉ, Viện Nghiên cứu Tôn giáo và văn hóa Nhật Bản, Hội đồng khoa học Nhật Bản cũng đã đến làm việc với Ban Phật giáo Quốc tế và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, thảo luận về văn hóa Phật giáo, văn hóa lịch sử Việt Nam, vấn đề nghiên cứu Phật học, vấn đề Phật tử Việt Nam ở nước ngoài.
1.2.3. Các cuộc viếng thăm, hội nghị và tham dự hội thảo
Năm 1993: hợp tác tổ chức Đại hội ABCP về hòa bình, giải trừ quân bị tại Hà Nội; tham dự các Hội thảo về đạo đức, Phật học, giáo dục được tổ chức hàng năm tại thiền viện Trúc Lâm, Paris; viếng thăm và làm việc với Hội Phật giáo Đồng tu, Hội Phật Quang Sơn Đài Bắc, Đài Loan (1995); viếng thăm và trao đổi ý kiến về hợp tác nghiên cứu văn hóa và học thuật Phật giáo với Phật giáo Thái Lan (Viện Đại học Mahachulalongkom) với Hệ phái Bắc tông gốc Việt Nam tại Thái Lan Anamikaya (1996 và 1997).
2. Đến những điều kiện cần và đủ làm nền tảng định hướng đối ngoại cho GHPGVN thời hội nhập
2.1. Chính sách đổi mới tư duy tôn giáo trong bối cảnh hội nhập
Hoạt động đối ngoại của PGVN thể hiện rõ sự chuyển biến tích cực mối quan hệ giữa Nhà nước với Giáo hội. Điều này nằm trong sự đổi mới về nhận thức, đường lối và chính sách tôn giáo, những nỗ lực về phương diện luật pháp tôn giáo trong khung cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16-10-1990 của Bộ Chính trị khóa VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” là dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển về nhận thức. Nghị quyết này có hai luận điểm đáng chú ý là “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới”(2).
Hai luận điểm trên đã tạo nên sự đột phá nhận thức, nhìn nhận tôn giáo như một “thực tại xã hội” và là nhu cầu của một bộ phận quần chúng. Khai thác tốt các giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo thuận lợi hơn trong quá trình tìm về dân tộc. “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương - giáo và các tôn giáo khác. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng; đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”(3).
Như vậy, đổi mới tư duy về tôn giáo là thừa nhận tôn giáo như một thực tại xã hội, đồng hành với dân tộc và “phải tạo cho tôn giáo khả năng và quyền hạn pháp lý nhân sự tham gia tích cực hơn vào một số lĩnh vực xã hội thích hợp, đóng góp vào việc xây dựng phát triển đất nước thỏa mãn nhu cầu của đời sống tôn giáo”(4). Vì thế, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa, mọi tôn giáo đều có khuynh hướng trở thành “tôn giáo xã hội”, thích ứng và hội nhập xã hội ngày càng cao và đang có những biến đổi, những tác động sâu sắc, mới mẻ trên mọi phương diện.
2.2. Mục tiêu và thành tựu của GHPGVN trong dòng chảy hội nhập quốc tế
Trên nền tảng chính sách đổi mới tư duy tôn giáo, GHPGVN - như một thực thể xã hội - đã đề ra mục tiêu đối ngoại: “Mở rộng giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và kiến thức về các truyền thống văn hóa, hoằng pháp, giáo dục, tu tập tâm linh, v.v. giữa GHPGVN và Phật giáo các nước trên thế giới. Đồng thời, tạo mối quan hệ thân hữu giữa GHPGVN và Phật giáo các nước, giữa các Phật tử trong và ngoài nước. Tham dự các diễn đàn, hội thảo, hội nghị Phật giáo trên thế giới, đón các phái đoàn Phật giáo thế giới viếng thăm PGVN. Tổ chức các diễn đàn, hội nghị, hội thảo các chuyên đề Phật giáo, trao đổi những kinh nghiệm, kiến thức, truyền thống văn hóa Phật giáo của các nước trên thế giới và cập nhật hóa tình hình thực tế nhằm đem đến hiệu quả thiết thực trong công tác hoạt động ngoại giao”(5).
Cho nên, trước bối cảnh toàn cầu hóa, từ mục tiêu đối ngoại trên, PGVN đã phát huy truyền thống đồng hành cùng dân tộc, hội nhập môi trường quốc tế. Tích cực và chủ động tham gia vào các hoạt động đối ngoại nhằm mục đích đoàn kết, hữu nghị hợp tác với cộng đồng Phật giáo các nước trong khu vực và quốc tế vì hòa bình, tham gia các hoạt động hướng tới lợi ích mang tính toàn cầu. GHPGVN đã chủ động tăng cường mở rộng mối quan hệ, liên kết thân hữu, hợp tác trao đổi kinh nghiệm tu tập với các truyền thống hệ phái Phật giáo và Tăng, Ni, Phật tử các nước trong khu vực ASEAN, châu Á, châu Âu, châu Mỹ và các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đón tiếp các Giáo hội, các hệ phái và tổ chức Phật giáo quốc tế đến thăm Việt Nam; cũng như cử các đoàn đại diện Giáo hội đi thăm hữu nghị, tham dự hội thảo quốc tế và lễ hội văn hóa Phật giáo tại các nước, vùng lãnh thổ. Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp Quốc, được tổ chức tại Việt Nam năm 2008, 2014 và 2019 thành công, thể hiện năng lực hội nhập, đối ngoại của PGVN.
2.3. Quan hệ quốc tế GHPGVN đóng góp tích cực cho đối ngoại đất nước
Tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một thực thể xã hội luôn tác động đến xã hội, do đó, trước khi nêu lên đối ngoại Phật giáo đóng góp tích cực cho đối ngoại Việt Nam, cần nhận diện nguồn lực(6) tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. “Tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng là một nguồn lực xã hội, đặc biệt ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay thì nguồn lực Phật giáo càng thể hiện rõ tiềm năng của mình”(7).
Cho nên, trong bối cảnh quốc tế mới, việc đặt ra vấn đề “chủ động”, “tích cực” và “có trách nhiệm” trong bối cảnh đối ngoại Việt Nam hiện nay là hoàn toàn hợp lý và kịp thời. Phát triển bền vững là ưu tiên lớn nhất trong giai đoạn hiện nay, được cụ thể hóa bằng thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Như vậy, cách tiếp cận của Phật giáo trong việc phát triển bền vững, đóng góp rất lớn cho trách nhiệm đối với quốc gia. Bên cạnh đó, qua hội thảo quốc tế của Đại lễ Vesak 2019 tại Tam Chúc, từ ngày 12 - 14 tháng 5-2019 với chủ đề: “Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”, PGVN đã góp phần cho định hướng này, cũng như góp phần đóng góp cho đối ngoại của Việt Nam trong định hướng phát triển toàn cầu.
Bên cạnh đó, trong nhiều năm qua, thực hiện chính sách của Nhà nước ta về công tác Việt kiều là luôn quan tâm tới cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, GHPGVN đã thành lập các tổ chức cơ sở, hình thành Hội Phật tử Việt Nam ở nước ngoài nhằm thực hiện sự nghiệp chăm lo cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Các chuyến hoằng pháp của GHPGVN tại hải ngoại đã hướng bà con về với cội nguồn tổ tiên, quê hương đất nước thông qua các hoạt động Phật sự có ích, các sinh hoạt văn hóa, lễ hội, công tác từ thiện xã hội.
Từ đây có thể khẳng định, đối ngoại nhân dân qua hình ảnh Phật giáo, góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế quốc tế của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, “cùng với các cơ quan chuyên trách của đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước đã tích cực đẩy mạnh toàn diện các hoạt động, góp phần làm nên những thành tựu đáng ghi nhận của nền ngoại giao nước nhà, đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế”(8).
3. Kiến nghị định hướng xây dựng quan hệ đối ngoại của GHPGVN thời hội nhập
Dựa trên tinh thần tiếp tục thay đổi nhận thức và tư duy tôn giáo qua chính sách của Đảng và Nhà nước cùng với đường hướng phát triển GHPGVN trong xu thế mới, phù hợp với môi trường toàn cầu, bài viết này mạo muội kiến nghị:
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động quốc tế Phật giáo trong việc giao lưu giáo dục, văn hóa, học thuật và các hoạt động từ thiện xã hội. Những đóng góp cho sự phát triển của dân tộc qua nhiều thời kỳ lịch sử đã tạo cho PGVN một vị trí đặc biệt trong tư tưởng và tình cảm không chỉ riêng của giới Phật giáo các nước mà còn đối với cả những hoạt động văn hóa hoặc tôn giáo bạn. Hoạt động trao đổi văn hóa chính thức với các tổ chức giáo dục đại học tại Ấn Độ, trao đổi học thuật và hoạt động từ thiện xã hội với Phật tử Nhật Bản, Đài Loan, v.v. đóng góp cho sự phát triển đồng đạo khắp năm châu, cũng như góp phần cho sự nghiệp hòa bình hợp tác và phát triển quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, tạo điều kiện, quan tâm đến việc đào tạo một lớp Tăng, Ni sinh trẻ, giỏi về Phật học, có trình độ đại học, có năng lực thiết thực áp dụng giáo lý Đức Bổn sư, giỏi về sinh ngữ, có khả năng hoạt động quốc tế, có tinh thần dân tộc để có thể gánh vác những nhiệm vụ quốc tế mà Giáo hội giao phó. Đẩy mạnh các hoạt động quốc tế không riêng trong lĩnh vực đấu tranh cho hòa bình mà còn mở rộng thêm trên các lĩnh vực trao đổi văn hóa học thuật Phật giáo, xây dựng các dự án hợp tác giữa các Phật tử các nước với Việt Nam trên lĩnh vực từ thiện xã hội; và vận động tiếp tục các học bổng, đề cử các Tăng, Ni sinh xuất sắc, có khả năng có thể đi học thêm ở nước ngoài, vừa để trao đổi thêm các kinh nghiệm hoạt động quốc tế, vừa thuận tiện cho việc sử dụng các ngoại ngữ cần thiết.
Thứ ba, thành lập các nhóm chuyên môn để nghiên cứu tình hình Phật giáo trong và ngoài nước. Nâng cao sự hiểu biết các tổ chức Phật giáo bạn. Các vấn đề thời sự có liên quan đến Phật giáo phải có người nghiên cứu đầy đủ, như vấn đề đạo đức môi sinh, xã hội, giáo dục, văn hóa, v.v. để Giáo hội có thể tham khảo, lập kế hoạch trong sinh hoạt quốc tế. Nâng cao kiến thức, kỹ năng về đối ngoại, tìm hiểu về Giáo hội, về tổ chức sinh hoạt, về các vấn đề thời sự và có khả năng sinh ngữ trong giao tiếp với đoàn Phật giáo các nước.
Thứ tư, mở rộng các hoạt động đối ngoại đa phương theo định hướng ngoại giao nhân dân, ngoại giao văn hóa. Chủ động và tích cực trong quan hệ đối ngoại với các tổ chức Phật giáo và tổ chức tôn giáo thế giới. Tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với cộng đồng Phật giáo thế giới, với Phật giáo các nước châu Á, các nước Asean. Chủ động tích cực tham gia với tư cách thành viên, thành viên sáng lập của các tổ chức Phật giáo quốc tế, góp phần tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu vì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Thường xuyên trao đổi đoàn đi thăm các nước, tham gia hội thảo quốc tế, cũng như đón tiếp các phái đoàn quốc tế, các tổ chức Phật giáo và tổ chức tôn giáo thế giới, các hệ phái, truyền thống Phật giáo các nước.
Cuối cùng, đề xuất xây dựng chuyên ngành đào tạo cấp đại học: Quan hệ đối ngoại Phật giáo tại bốn Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hà Nội và Cần Thơ. Ngày nay, một nền giáo dục toàn diện tạo nên chất lượng giáo dục đáp ứng được nhu cầu phát triển cần tư duy và cách làm giáo dục phải theo kịp thời đại. Sự phát triển của khoa học và công nghệ thông tin làm cho thế giới ngày một “phẳng”, con người có điều kiện hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Cho nên, GHPGVN cần có chuyên ngành đào tạo mới, đáp ứng nhu cầu hội nhập theo sự phát triển. Vì ngành này sẽ đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng, có kiến thức và kỹ năng căn bản cũng như chuyên sâu về nghiên cứu quan hệ đối ngoại Phật giáo; cung cấp cho sinh viên bức tranh tổng quát về Phật giáo thế giới và các vấn đề về các tổ chức Phật giáo quốc tế trên nền tảng các kiến thức cơ sở về PGVN. Với kiến thức đa và liên ngành, Tăng Ni sinh viên có thể tiếp cận với những cơ hội cống hiến cho các ban ngành đối ngoại Phật giáo từ Trung ương đến địa phương hoặc tiếp tục theo học ở các bậc học cao hơn. Đây là một lối đi mới theo nhu cầu thực tế của Giáo hội trong các công tác đối ngoại, cũng như theo nhịp tiến về học thuật của thế giới đòi hỏi nền giáo dục Phật giáo cần trang bị để trao đổi học thuật mang tầm quốc tế mà chúng ta không bị thiếu thốn nhân lực khi tham gia vào môi trường quốc tế này(9).
4. Kết luận
Từ những đóng góp lúc ban đầu về đối ngoại của Trưởng lão Thích Minh Châu với vai trò Trưởng ban Phật giáo Quốc tế đầu tiên đến đường lối đổi mới và mở cửa, cũng như chính sách đúng đắn của Nhà nước về tự do tín ngưỡng cùng sự yểm trợ chân tình của các cơ quan lãnh đạo ở Trung ương các cấp, Giáo hội đã có thuận duyên để tiếp tục phát triển vững mạnh, trang nghiêm trong lòng dân tộc, theo hướng đi lên của thời đại. Hoàn cảnh lịch sử mới với nhiều triển vọng của đất nước tạo điều kiện cho GHPGVN phát huy mạnh mẽ các tiềm năng trong mọi hoạt động quốc tế, làm cho các hoạt động này được thực hiện có kế hoạch, chủ động, thiết thực cùng đồng bào và các cộng đồng có thiện chí khắp năm châu, góp phần đem lại hòa bình an lạc cho dân tộc Việt Nam và nhân loại.
______
(1)Nguyễn Đại Đồng (2012), Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ Đại hội đến Đại hội (1981-2012), NXB.Tôn Giáo, tr.295.
(2)Đỗ Quang Hưng, Từ sự đổi mới nhận thức đến sự đổi mới về chính sách tôn giáo, http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1081/Tu_su_doi_moi_nhan_thuc_den_su_doi_moi_ve_Chinh_sach_Ton_giao.
(3)Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB.Sự Thật, Hà Nội.
(4)Đỗ Quang Hưng, Từ sự đổi mới nhận thức đến sự đổi mới về chính sách tôn giáo, http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1081/Tu_su_doi_moi_nhan_thuc_den_su_doi_moi_ve_Chinh_sach_Ton_giao.
(5)Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nội quy Ban Phật giáo quốc tế Trung ương, http://vinhnghiem.de/news/index.php?nv=news&op=Dieu-le/Noi-qui-Ban-Phat-giao-quoc-te-Trung-uong-227.
(6)Nguồn lực là “Tổng thể lực lượng vật chất và tinh thần được sử dụng hoặc có khả năng sử dụng để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia”. [Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2016), Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 35 năm hình thành và phát triển, NXB.Hồng Đức, tr.195].
(7)Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2016), tài liệu đã dẫn, tr.195.
(8)Đôn Tuấn Phong, Đối ngoại nhân dân góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế quốc tế của Việt Nam, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Doi-ngoai-va-hoi-nhap/2019/54845/Doi-ngoai-nhan-dan-gop-phan-nang-cao-hinh-anh-va-vi.aspx.
(9)Xem thêm Thích Thanh Tâm (2019), Phật học việt nam thời hiện đại: Xây dựng chuyên ngành quan hệ đối ngoại Phật giáo, https://thuvienhoasen.org/a34977/phat-hoc-viet-nam-thoi-hien-dai-xay-dung-chuyen-nganh-quan-he-doi-ngoai-phat-giao.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Đại Đồng (2012), Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ Đại hội đến Đại hội (1981 - 2012), NXB.Tôn Giáo.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB.Sự Thật, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (2016), Giáo hội Phật giáo Việt Nam: 35 năm hình thành và phát triển,NXB.Hồng Đức.
Thích Thanh Tâm, Quan hệ đối ngoại Phật giáo Việt Nam từ năm 1981 đến nay, sách chuyên khảo, sắp xuất bản.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Nội quy Ban Phật giáo quốc tế Trung ương, http://vinhnghiem.de/news/index.php?nv=news&op=Dieu-le/Noi-qui-Ban-Phat-giao-quoc-te-Trung-uong-227.
Bùi Thanh Hà, Định hướng phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/dinh-huong-phat-huy-nguon-luc-ton-giao-trong-phat-trien-dat-nuoc.html.
Đỗ Quang Hưng, Từ sự đổi mới nhận thức đến sự đổi mới về chính sách tôn giáo, http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1081/Tu_su_doi_moi_nhan_ thuc_den_su_doi_moi_ve_Chinh_sach_Ton_giao.
Đôn Tuấn Phong, Đối ngoại nhân dân góp phần nâng cao hình ảnh và vị thế quốc tế của Việt Nam, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Doi-ngoai-va-hoi-nhap/2019/54845/Doi-ngoai-nhan-dan-gop-phan-nang-cao-hinh-anh-va-vi.aspx.
Thích Thanh Tâm (2019), Phật học việt nam thời hiện đại: Xây dựng chuyên ngành quan hệ đối ngoại Phật giáo, https://thuvienhoasen.org/a34977/phat-hoc-viet-nam-thoi-hien-dai-xay-dung-chuyen-nganh-quan-he-doi-ngoai-phat-giao.
(NSGN 354)
