Thiền sư Thanh Đàm (1786-1848): Hành trạng và trước tác

Chùa Phượng Ban, Ninh Bình
Chùa Phượng Ban, Ninh Bình
0:00 / 0:00
0:00
NSGN - Thiền sư Thanh Đàm là một vị danh tăng Việt Nam thời Nguyễn thế kỷ XIX.

1. Hành trạng và sự nghiệp

Trong nhiều công trình Phật giáo sử Việt Nam trước đây đều ghi không rõ tên tuổi, năm sinh năm mất và hành trạng ngài Thanh Đàm, chỉ riêng Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận chương viết về Danh tăng đời Nguyễn, mục Thiền sư Thanh Đàm đã cho biết một ít thông tin về ngài: Thanh Đàm pháp hiệu Minh Chính là vị danh tăng đầu đời Nguyễn, trụ trì chùa Bích Động làng An Khê, phủ An Khánh tỉnh Ninh Bình. Ông là đệ tử của Thiền sư Đạo Nguyên viện chủ thiền viện Nguyệt Quang, một tổ đình của môn phái Chân Nguyên dòng thuộc pháp phái Trúc Lâm(1). Chỗ này thì tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận đã nhầm lẫn. Căn cứ vào văn bia nơi mộ tháp thì ngài Thanh Đàm thuộc thế hệ thứ 42 của môn phái Tào Động và là Tổ thứ 8 của môn phái này ở miền Bắc nước ta. Ngài là học trò của Thiền sư Đạo Nguyên. Năm 1819, ngài biên soạn Pháp hoa đề cương, sau đó còn viết Bát-nhã trực giảiĐề án tham cứu.

Căn cứ vào các tài liệu và văn bia tại nhà thờ Tổ và tại tháp Tịnh Diệu ở chùa Phượng Ban, thì Thiền sư Thanh Đàm có thế danh là Nguyễn Đình Trị, sinh năm 1786, quê ở thôn Lân Liêu, xã Phú Kim, huyện Nam Trực, phủ Thiên Trường (nay là xã Nam Lợi, huyện Nam Trực) tỉnh Nam Định trong một gia đình nông dân có 6 anh em. Ngài xuất gia năm 1804, thọ Cụ túc giới năm 1806, và là một trong 9 đệ tử đắc pháp nơi Tổ thứ 7 phái Tào Động là Thiền sư Khoan Dực Phổ Chiếu Đạo Nguyên Tăng thống tại thiền viện Nguyệt Quang ở Hải Phòng. Ngài được bổn sư Khoan Dực Đạo Nguyên ban pháp danh Thanh Đàm.

Năm 1820, trên bước đường du hóa ngài tới làng Yên Liêu Thượng, xã Khánh Thịnh huyện Yên Mô, thấy có ngôi chùa cổ bị hoang phế tọa lạc trên mảnh đất hình con phượng nằm bên dòng sông Ban, ngài đã trụ lại không quản nắng mưa, từng bước khôi phục cảnh chùa và đặt tên chùa là Phượng Ban.

Thiền sư tu trì theo Chánh pháp, học rộng, tìm nguồn gốc sâu xa của đạo Phật, là bậc thấu hiểu cội gốc vô minh, ngộ chứng lý trọn vẹn của vạn vật và tâm linh, giáo hóa cho mọi người xuất gia cũng như tại gia được nhớ ơn. Năm Ất Mùi (1835) niên hiệu Minh Mạng thứ 6, ngài vào kinh dự khóa sát hạch do triều đình mở và đỗ hạng ưu và được phong Tăng cương, triều đình cấp giới đao độ điệp (Sắc phong đề ngày 1 tháng 10 cùng năm).

Đến năm Kỷ Hợi (1839), ngài trở thành Tổ thứ 8 thiền phái Tào Động phía Bắc và càng quan tâm việc hoằng dương Phật pháp, mọi chốn trang nghiêm, bè phúc cứu dân, đều được nương tựa. Năm tháng thoi đưa, tháng Giêng năm Mậu Thân (1848), ngài 63 tuổi rời bỏ cõi trần tại chùa Liêm Khê. Hàng đệ tử đã hỏa táng nhục thân ngài, di cốt lưu lại được đưa vào chùa, ngày 8 tháng 4 năm Giáp Dần (1854) làm lễ nghênh đón xá-lợi về chùa Phượng Ban xây tháp thờ. Bảo tháp đề: Nam-mô Tịnh Diệu tháp, Tào Động môn nhân thiệu đăng tự tổ, khâm mông phụng ban giới đao độ điệp Sa-môn Thanh Đàm Tỳ-kheo Giác Đạo Tuân Minh Chính Hòa thượng Hoằng Quang Bồ-tát (1786-1848).

Dòng thiền Tào Động đời thứ 42, Tổ thứ 2 chùa Bích Động, Sơ tổ chùa Phượng Ban. Sinh ngày 7 tháng 6. Giỗ ngày 24 tháng Giêng.

Trên văn bia tại tháp Tịnh Diệu, chùa Phượng Ban có khắc ghi Dụ ban độ điệp của triều đình như sau:

Về việc bộ Lễ vâng tuân lệnh dụ trao cấp độ điệp, chiểu theo thấy nhà Phạm dựng giáo, cốt ở từ bi; đạo Giác cứu người, gốc tại thanh tịnh. Phàm những bí quyết rộng lớn sâu xa; đều là khuôn mẫu để khai thông cứu độ đã vì con dân mà làm phúc, đã trao chuyển giả lên trên bộ tiêu hủy, để giữ nghiêm điều cấm!

Ôi! Trí tuệ giác ngộ cùng nương vào pháp giới, gương báu thai sen hằng rạng; sum vầy đoàn tụ cùng tắm gội duyên lành, móc vàng nhành dương tưới khắp, lệnh vua với Phật pháp thông suốt các điều với nhau, cho nên trao cho điệp.

Điệp trao cho thiền tăng người thôn Trà Liêu, xã Phù Kim, tổng Diên Hưng, huyện Nam Chân, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định trụ trì chùa độ. Bởi thế nên những bậc Sa-môn, đạo sĩ, phải nên dò nắm được tông chỉ của sự truyền đèn, cốt khiến cho trí tuệ và tấm thân được lớn đầy, sắc tướng được rạng tỏ dung thông. Từ đó có thể ngầm hợp với lẽ chân như trong lắng của nhà Thiền; để mà cung kính hoằng dương cảnh thái bình lâu dài của đời Thánh vậy.

Nay vâng mệnh hoàng thượng, nắm ngôi trung chính, dẹp tan giặc giã, gom góp phúc lành, kính đức lớn để cầu bền mệnh; chứa điều lành để rước điềm lành. Đặc biệt muốn khiến con dân trong ngoài đều được nhiều điều tốt lành, chiêm ngưỡng trang nghiêm hải hội, vô biên công đức như cát sông.

Nay vâng rõ mệnh một điều khoản trong tờ dụ, vào ngày tiết Trung nguyên thiết lập đạo tràng Thủy lục, cầu siêu độ cho linh hồn các quan binh bị chết trong chiến trận, để vun bồi phúc âm. Lần thiết lập đạo tràng nên có trai đàn cùng thiền tăng và đã truyền lệnh nhóm họp các Tăng chúng, mỗi người được cấp một bộ giới đao và độ điệp. Tuân mệnh!

Vâng tuân theo mệnh điều tra thấy hiện nay đã qua truyền gọi triệu tập có thiền tăng ở chùa Phượng Ban, thôn Thượng, xã Liêu Xá, huyện Yên Khánh, phủ Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình là Nguyễn Đình Trị, là người khả năng nghiêm giữ giới luật, tỏ chút cơ Thiền. Vì thế vâng mệnh trao cho một đao độ điệp, giới đao một con, vẫn được trụ trì bản tự. Tất cả những việc thuê mướn, binh phu cùng những việc sái phái tạp vụ đều được miễn trừ, cốt để cho sư chùa được tiêu trừ muôn phiền, thấu tỏ ba thừa. Vả nếu sau khi nhận độ điệp giới đao mà cội trần vẫn chửa sạch, vẫn nảy báo chướng, thảng có vết nhơ thì ngửa trông quan dân tức thì trói bắt, giao cho quan lại địa phương chiểu theo luật mà trừng phạt, cứ theo lệnh mà cho hoàn tục, đem độ điệp Phượng Ban, tỉnh Ninh Bình chiểu theo mà nắm giữ.

Ngày 1 tháng 10 năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) tháp Tịnh Diệu, Hòa thượng Minh Chính.

Một người làm phúc ngàn người dựa; Mỗi cội đơm hoa muôn cội thơm.

Ôi! Tháp thoạt đầu do Như Lai đích thân định ra, cắm nêu cờ phướn nhằm lìa bụi thoát đời; Chế để tên riêng để gọi, sáng rõ dấu vết của sáng lòng tốt đức.

Kính nghĩ: Nam-mô Tổ sư Tịnh Diệu tháp, pháp huý Giác Đạo Tuân Minh Chính Hòa thượng Hoằng Quang Bồ-tát Thiền tòa hạ. Trọn vẹn việc hóa duyên; lắng thần nơi cõi Tịnh. Quả thì chứng, nhân thì tu, thẳng vào cõi Tam-muội không tiếng; tên thì thơm, đạo thì chín, hân hoan mà giải thoát bụi trần, nhằm ngày 24 tháng Giêng năm [Mậu] Thân (1848), phúc dày mà tùy phương giáo hóa. Nay bốn chúng cảm kích trong lòng, dựng tháp đền ơn, khắc bài kệ mà ca ngợi rằng:

Pháp thân không tướng

Lẽ khớp chân như

Sống chết đâu chia

Đạo kia không giả

Kính ngẫm đức Tổ

Thiên Trường khí tốt

Phù Kim giáng sinh

Trong dòng họ Nguyễn

Tuổi tròn mười chín

Quyết chí đầu-đà

Quy kính Tịnh Minh

Chìa vai gánh vác

Nghi giang trong vắt

Tính tướng tu trì

Văn rộng lẽ giản

Đạo Nguyên trao ấn

Về nguồn cùng cội

Chứng đạo viên thường

Vượt lên ngoài vật

Tố Truy giáo hóa,

Ất Mùi (1835) đúng khóa

Thi trúng hạng ưu

Ơn nước ơn vua

Tiếng tăm rạng rỡ

Đến năm Kỷ Hợi (1839)

Nối truyền mắt pháp

Đèn Tào thứ tám

Thiền tâm phả trao

Hoằng dương việc Phật

Mọi chốn trang nghiêm

Bè phúc cứu dân

Đều được nương tựa

Tuổi hoa thấm thoắt

Đầu xuân Mậu Thân (1848)

Tuổi đúng sáu ba

Bụi lòng rũ bỏ

Liêm Khê gội tắm

Nẻo bắc thang mây

Linh Quang một chấm

Sáng mãi đêm ngày

Lửa Tam-muội tắt

Xương trắng ngưng châu

Sáng tám tháng Tư

Giáp Dần (1854) mùa hạ

Kính rước xá-lợi

Báo đáp đầu đuôi

Mạch dẫn Phượng Ban

Tháp yên tòa báu

Tông môn mãi rạng

Sánh tựa đôi vầng

Tịnh Diệu tháp cao

Muôn đời kính ngưỡng

Như nay công đức

Đại chúng đội ơn

Ý khó nói lên

Tạm ghi vào đá.

Dựng tháp vào giờ hoàng đạo đại cát ngày 13 tháng 7 nhuận năm Giáp Dần niên hiệu Tự Đức 7 triều Nguyễn (1854)(2).

Chùa Phượng Ban

Chùa Phượng Ban

2. Trước tác của Thanh Đàm

Là đệ tử của Thiền sư Đạo Nguyên, một bậc danh tăng thạc đức lúc bấy giờ, nên ngài được học tập và sớm lĩnh hội tinh hoa Phật pháp từ sư phụ trao truyền. Hồi mới xuất gia, một hôm ngài hỏi Thiền sư Đạo Nguyên: “Tâm không phải ở trong thân, cũng không phải ở ngoài thân, cũng không phải ở chặng giữa. Vậy Tâm rốt cuộc nằm ở đâu?”. Đạo Nguyên mỉm cười, xoa đầu ông và đọc cho ông nghe bài kệ: “Tùy thời ứng dụng/ Ngộ vật kiến cơ/ Tính bản như như/ Hà quan nội ngoại”. (Ứng dụng theo thời/ Gặp vật thấy cơ/ Chân tính như như/ Trong ngoài chẳng nệ). Ngày ngài thọ giới Cụ túc, Thiền sư Đạo Nguyên cũng đọc cho ngài bài kệ: “Quang phóng mi gian vô đạo Phật/ Vân sinh túc hạ vị ngôn tiên/ Nhiêu quân bảo dưỡng ngưu phi tráng/ Triêu tịch thực canh bỉ thốn điền”. (Trán phóng hào quang đâu phải Phật/ Dưới chân mây trắng chửa là tiên/ Hãy nuôi trâu nọ cho cường tráng/ Hôm sớm cày sâu đám ruộng mình)(3).

Thanh Đàm để lại cho Phật giáo Việt Nam những trước tác sau:

(1) Pháp hoa đề cương viết năm 1819 tại Liêm Khê viện. Đây là một công trình biên khảo có giá trị Phật học và văn chương, bởi bên cạnh văn xuôi luận giải vấn đề thì tác phẩm còn có chép lại nhiều thi kệ, được nhiều bậc thức giả xưa nay tán thán ngợi ca. Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận cho rằng “Pháp hoa đề cương là cẩm nang cho người đọc kinh Pháp hoa(4), giúp cho người đọc lĩnh hội được yếu chỉ của kinh. Pháp hoa là kinh văn Đại thừa, trình bày cốt tủy của Nhất thừa pháp, tức Phật thừa. Thiền sư Thanh Đàm đã đọc kinh Pháp hoa bằng cái nhìn của nhà Thiền học, và thường đối chiếu nội dung tư tưởng kinh Pháp hoa với kinh Lăng nghiêm, kinh Kim cang. Trong bài Bạt ở cuối sách, Thanh Đàm đã luận giải ngắn gọn, súc tích và sáng rõ về yếu chỉ cốt tủy của kinh Diệu pháp liên hoa. Theo ngài, Diệu tức là Tâm, cái chân tâm sáng suốt tròn đầy. Cái chân tâm này không thể đạt tới bằng suy tư và nghị luận, mà chỉ có thể trực ngộ bằng trực cảm tâm linh; pháp là căn, trần, thức. Ba món căn, trần, thức này do chân tâm mà lưu xuất, mà căn là gần gũi, có thể quán sát chân tâm. Theo Thanh Đàm, hành giả trên cơ sở quán sát rồi ứng dụng của tâm trên căn trần mà thông đạt chân tâm, tức thấy được tự tính, ngộ đạo, căn tính cũng cùng một thực thể với chân tâm. Trong tác phẩm, Thanh Đàm nhiều lần nhắc lại các bài kệ trùng tụng trong kinh Pháp hoa, kinh Lăng nghiêm với mục đích giúp cho hành giả ngộ được tự tính, Phật thừa.

(2) Tâm kinh trực giải viết năm 1843. Trước tác này còn có nhan đề là Bát-nhã trực giải. Tác phẩm được Thanh Đàm viết để giải thích nội dung tư tưởng của Bát-nhã Tâm kinh (Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh) thông qua 10 mục: (1) Đề mục; (2) Chính nhân; (3) Hạnh môn; (4) Khai thị; (5) Thực tướng; (6) Tảo nhị chấp; (7) Vô sở đắc; (8) Tịch diệt; (9) Tu chứng; (10) Nguyện mãn. Bên cạnh, thiền sư còn luận giải các bài kệ về Bát-nhã của các bậc thạc đức ngày xưa để lại, và bàn về lục căn, thất đại qua hai câu kệ của Trúc Lâm Điều ngự Giác hoàng.

(3) Đề án tham cứu

Đây là một trước tác về Thiền học. Nội dung tác phẩm ghi chép những công án, niêm tụng kệ để hành giả nương theo đó mà tham cứu khi hành thiền, tu tập.

Trong công trình Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang có ghi chép lại các công án trong Đề án tham cứu của Thanh Đàm như sau:

Đề án 1. Thế Tôn xuất thử thị hà duyên?

Chỉ vị Liên hoa đại sự yên.

Hà nãi trung gian do vị thuyết

Niết-bàn tương cận thủy ban tuyên?

(Thế Tôn xuất thế bởi vì đâu?

Tuyên thuyết Liên hoa pháp nhiệm mầu.

Thử hỏi cả đời sao chửa nói

Gần khi nhập diệt mới truyền trao?)(5)

* Nghi vấn đưa ra để tham cứu: Tại sao Đức Phật phải đợi đến lúc gần nhập diệt mới chịu thuyết kinh Pháp hoa?

Đề án 2. Tây lai trực vị chỉ tâm tông

Hà nãi cửu niên diện bích trung?

Tất dã đầu cơ cơ vị thục

Thục thời nhiên hậu hiển chân không?

(Từ Tây phương đến chỉ tâm tông

Sao chín năm luôn mặt úp tường?

Có phải vì căn cơ chửa chín

Chín rồi mới hiện lộ chân không?)(6).

* Nghi vấn đưa ra để tham cứu: Bồ-đề Đạt-ma qua Đông Độ để chỉ bày Tâm tông, tại sao lại phải ngồi nhìn vách suốt chín năm, hay là tại thực sự chưa giác ngộ?

Đề án 3. Huệ Năng đắc pháp ấn Kim cương

Hà nãi truyền quy Nam Lĩnh Dương?

Bất đán vị tha tuyên pháp ấn

Cái tri nhân tính thượng mê mang.

(Huệ Năng được ấn pháp Kim cương

Sao phải chạy về Nam Lĩnh Dương?

Không ở ngay đây tuyên pháp ấn?

Biết đâu chân tính vẫn mơ màng!)(7).

* Nghi vấn đưa ra để tham cứu: Huệ Năng nếu quả thật đắc pháp với Ngũ tổ, tại sao không ở ngay đó để hoằng đạo mà phải chạy về Lĩnh Nam?

Công án Thuần Đà: công án này được Thanh Đàm ưa thích và thường sử dụng.

Niêm: Hay lắm, Thuần Đà! Hay lắm, Thuần Đà!

Tụng: Không nói ngắn, chẳng nói dài

Ngắn dài, tốt xấu thảy đều sai.

Tìm hay lại hóa người chê vụng

Bắn sẻ ai dè sói chực ngay.

Công danh cái thế màn sương sớm

Phú quý kinh nhân giấc mộng dài.

Chẳng hiểubản lai vô nhất vật

Công lao uổng phí một đời ai(8).

(4) Bài thơ Tầm tâm (Tìm tâm) gồm ba bài thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ nêu hình ảnh hành giả đeo trống ngang lưng rồi đánh trống, mà đây là trống tâm. Những câu 3 và câu 4 của bài một; câu 2, câu 4 của bài hai; câu 2 của bài ba với việc sử dụng điệp phụ âm đầu cùng điệp từ, láy từ gợi cho người đọc liên tưởng đến âm thanh của tiếng trống:

“- Kiên kình yêu cổ đối tri âm

Thư thủ vô vi phách cổ tâm.

Tập tập tầm tâm tâm tắc tập

Tầm tâm tâm tập, tập tầm tâm.

- Cổ thanh hợp vận tùng thanh họa

Tịch chiếu tâm tông tức tập tầm.

Minh nguyệt thanh phong trường tự tại

Tầm tâm bất đắc tức tầm tâm.

- Chỉ chỉ! Ngô tâm bất khả tầm

Tầm tâm túng đắc tắc phi tâm.

Tương đăng cầu hỏa tự điên đảo

Bất nhược song tiền thủ nhất ngâm”.

(- Ngang lưng đeo trống đối tri âm

Duỗi thẳng hai tay, đánh trống tâm:

Tập tập tìm tâm, tâm tất tập

Tìm tâm, tâm tập, tập tìm tâm.

- Âm thanh hợp vận, âm cùng họa

Tịch chiếu Tâm tông, tức tập tầm.

Trăng sáng gió thanh thường tự tại

Tìm tâm chẳng được, nghỉ tìm tâm.

- Thôi nhé, tâm ta chẳng thể tầm

Tìm tâm dẫu được, chẳng chân tâm.

Mang đèn xin lửa thêm điên đảo

Thà đứng bên sông hát khúc ngâm)(9).

Tóm lại, với hành trạng sự nghiệp cùng những trước tác của Thiền sư Thanh Đàm như vừa trình bày ở trên, có thể nói Thiền sư Thanh Đàm là vị danh tăng Việt Nam thế kỷ XIX và là vị Tổ truyền thừa dòng thiền Tào Động ở Việt Nam. Chính vì thế triều đình nhà Nguyễn mới ban chức danh Tăng cương và cấp giới đao độ điệp cho ngài.

___________

(1)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.311.

(2)Theo Nguyễn Đại Đồng, Thiền sư Thanh Đàm. Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Số tháng 1-2020. Bài văn bia do Lê Quốc Việt dịch.

(3)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.311-312.

(4)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.313.

(5)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập 2. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.322.

(6)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập 2. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.322.

(7)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập 2. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.322-323.

(8)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập 2. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.323-324.

(9)Nguyễn Lang. 1994. Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập 2. NXB.Văn Học tái bản. Hà Nội. Tr.324-325.

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Đại Đồng (2020). “Thiền sư Thanh Đàm”. Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Số tháng 1-2020. Bài văn bia do Lê Quốc Việt dịch.

Nguyễn Công Lý (cb), Nguyễn Công Thanh Dung (2022). Văn học Phật giáo thời Lê - Nguyễn: diện mạo, thành tựu, đặc điểm, tác gia tiêu biểu. Hà Nội: Khoa học Xã hội.

Nguyễn Lang (1994). Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập 2. Hà Nội: Văn Học tái bản.

Viện Sử học (1976). Lịch sử Việt Nam tập 1, tập 2. HN: Khoa học Xã hội.

(NSGN 352)

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 389/GP-BTTTT ngày 02-8-2022
Tổng Biên tập: Thượng tọa Thích Tâm Hải
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2025 - Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.