Uống trà cho phép Tăng sĩ và giới trí thức gặp gỡ trên cùng lĩnh vực
và chia sẻ cùng những giá trị mỹ học - Ảnh: Uống trà đi
Những Phật tử và Đạo gia đã có một sự kết giao lâu dài với trà ở miền Nam, nhưng mãi cho đến khi việc biên soạn Trà kinh (茶經) của Lục Vũ (陸羽 733-804) và việc phổ biến uống trà bởi những du tăng Thiền tông mà văn hóa trà trở nên phổ biến rộng rãi. Trà quan trọng không chỉ cho việc duy trì những thời khóa thiền kéo dài, mà giống như rượu, nó cũng tạo cảm hứng cho các thi nhân và có những dược tính nổi tiếng. Thức uống mới này đã đem lại sự điềm đạm và tỉnh táo, và cũng ảnh hưởng sâu sắc hệ thống tri thức và là phương tiện mà qua đó những tư tưởng được đổi trao.
Bởi vì thái độ và vũ trụ quan của người ta thường được kết buộc với sản phẩm mà họ tiêu dùng, vậy ta nên lần theo những thay đổi văn hóa từ rượu đến trà thông qua những bản văn còn tồn tại. Bây giờ chúng ta sẽ sử dụng những văn bản thuộc nhiều thể loại khác nhau thuộc thời Trung Quốc trung đại để xem những tư tưởng Phật giáo đã tác động và chịu ảnh hưởng của sự thay đổi văn hóa này như thế nào.
Phật giáo và trà
Theo một vài cách, có thể thấy những thái độ đối với rượu ở xã hội đời Đường như một đường ranh mà nó tách Phật giáo ra khỏi truyền thống bản xứ: những Phật tử phát nguyện không uống rượu và lời phát nguyện này là phần căn cước của họ. Thái độ của Phật giáo đối với trà thì tích cực hơn rượu. William Ukers ghi chép trong nghiên cứu sơ khởi của mình về trà:“Nền văn minh đã sản sinh ra ba thức uống không cồn quan trọng - chiết xuất của lá trà, chiết xuất của hạt cà-phê, và chiết xuất của hạt cacao”, và một tôn giáo mà ở đó việc không uống rượu được xem là quan trọng đối với đời sống tâm linh thì hẳn tích cực trong việc phát triển trà (Ukers 1935, xiii). Chúng ta biết rằng việc sử dụng trà phổ biến nhanh chóng đáng kể từ việc sáng tác Trà kinh vào khoảng năm 760 đến việc lần đầu tiên đánh thuế vào trà vào năm 780; trong một vài thập kỷ nó đã phát triển từ thức uống của những người miền Nam và của các Phật tử thành một nhu cầu hàng ngày và một thức uống chính khắp lãnh thổ Trung Quốc.
Vai trò tôn giáo trong sự thay đổi này là rõ ràng ngay ở nơi đời sống của tác giả Trà kinh. Lục Vũ là một đứa trẻ mồ côi và được một nhà sư nuôi dưỡng (Ceresa 1990, 9-15). Thời trẻ, ông là một diễn viên hài, và tác phẩm văn học đầu tay của ông là một cuốn truyện cười mà ông sưu tập. Sau thành công của tác phẩm nghiêm chỉnh hơn về trà, ông trở thành hội viên của một nhóm văn nhân mà ở đó có sự góp mặt của thi tăng Giao Nhiên (交然 730-799), người có những tác phẩm nổi tiếng vào thời của mình, mặc dù ông ít được đọc hơn những thi nhân thời Đường khác. Trà kinh ảnh hưởng lớn trong việc phổ biến việc uống trà khắp lãnh thổ Trung Quốc đến độ Lục Vũ được gọi là Thánh Trà và những người buôn bán trà đã tạo tượng ông bằng đất sét (Xin Tangshu, 196.5612).
Từ những tài liệu bằng thơ và văn xuôi khác nhau giữa và cuối đời Đường, chúng ta biết rằng trà được phong cho những ý nghĩa văn hóa và tôn giáo quan trọng. Để đánh giá đúng cách trà được hiểu như thế nào ở thế giới trung đại, chúng ta phải mổ xẻ trên diện rộng những tài liệu văn học: giới tinh hoa và thi ca nổi tiếng, những vở kịch, những chuyên luận, sử liệu chính thức và cá nhân, những văn bản nghi lễ và những luật tắc của giới Tăng lữ. Ở lĩnh vực trao đổi kiến thức và mỹ học, sản phẩm mới có một sự ảnh hưởng đặc biệt dễ nhận thấy. Những buổi tiệc rượu của giới quý tộc như là trọng tâm chính cho việc trao đổi tri thức và văn hóa trong giới tinh hoa đã loại trừ hữu hiệu những Tăng sĩ và cư sĩ Phật giáo mộ đạo tham gia bởi vì giới cấm uống rượu. Tuy nhiên uống trà cho phép Tăng sĩ và giới trí thức gặp gỡ trên cùng lĩnh vực và chia sẻ cùng những giá trị mỹ học. Chư Tăng và những học giả như vậy khám phá và thúc đẩy một nền tảng chung có thể chấp nhận lẫn nhau và ở trong việc chọn lựa thức uống mới của họ. Trong khi trà có thể được trồng trọt với khối lượng đủ cho sự tiêu thụ ở phạm vi tương đối lớn, thì nó được trình bày trong văn chương như một sản phẩm khan hiếm hấp dẫn những người am hiểu.
Những bản văn thời Đường về trà xác tín việc uống trà đem lại cảm hứng và năng lượng cần thiết cho cả sáng tác thi ca và thiền định. Bởi vì sự xuất hiện của trà song song với việc xuất hiện một hình thức thực hành Phật giáo mới và đặc biệt, cả hai hòa quyện ở trong sáng tạo văn hóa và uống trà được hiểu đồng nghĩa với Thiền. Trà cũng ảnh hưởng việc biến đổi những danh thắng của Trung Quốc cả ở giới quần chúng và tầng lớp trí thức. Ở thời trung đại và về sau, những cuộc hành hương đến những ngôi chùa trên núi mà ở đó người ta tự trồng trà để uống là rất quan trọng trong việc phổ biến văn hóa trà. Một số ngôi chùa Phật giáo và đạo quán của Đạo giáo vào cuối thời Trung Quốc quân chủ đã sở hữu những đồn điền mênh mông và là những ông lớn trong kinh tế (Robbins 1974, 138).
Những tài liệu mà tôi xem xét ở đây được rút ra từ những loại khác nhau và tất cả chúng chạm vào những khía cạnh của việc chuyển đổi xã hội Trung Quốc từ một xã hội mà nó hầu như tập trung chuyên biệt vào rượu đến một xã hội cũng đặt cơ sở trên trà. Song không một tài liệu nào trong chúng mô tả chuyên biệt điều này; thay vì vậy chúng ta phải ghép câu chuyện từ những mảnh rời. Mặc dù những Phật tử có thể không chủ ý chuyển đổi thói quen uống của vương quốc, họ lại gắn kết mật thiết với mọi bước đường. Phật giáo là niềm tin chung của nhiều tác giả của những tiểu luận về việc không uống rượu đời Đường và sự giao kết giữa trà và Thiền thì trở nên quá mật thiết, ít nhất với một số người, đến mức không thể tách rời - mà theo cách nói phổ biến: “Trà và Thiền có cùng một vị (Thiền trà nhất vị/禪茶一味). Sự kết hợp này (nếu không phải là sự diễn đạt thật sự) có thể xác định niên đại với một ít tin cậy, tôi nghĩ, vào giữa thế kỷ VIII. Chắc chắn, ít nhất vào cuối thế kỷ XII, những luật tắc của Thiền Tăng bao gồm những luật lệ mà chúng ghi rõ cách thực hiện những nghi lễ trà cho những vị khách đặc biệt (Yifa 2002, 129-131).
Mặc dù ta có thể chắc chắn tiếp cận đề tài ảnh hưởng của Phật giáo vào văn hóa uống từ cái nhìn lâu dài, nó có thể quan trọng để bắt đầu với một cái nhìn gần vào một tài liệu trung đại duy nhất. Bằng việc làm như vậy, chúng ta có thể thấy cách một vài người trung đại đã tiếp nhận hai thức uống rượu và trà, và những giá trị văn hóa và tôn giáo gì nối kết với nhau.
Một tranh luận giữa ông Trà và ông Rượu
Trà tửu luận (茶酒論) mang hình thức một cuộc khẩu chiến giữa hai nhân vật là ông Trà và ông Rượu. Mỗi ông đua tranh chỉ ra tại sao mình là thức uống tốt hơn, mãi cho đến khi bên thứ ba bất ngờ chen vào vũ đài và chiến thắng cuộc tranh luận. Cuốn sách rõ ràng là một tác phẩm nổi tiếng nhưng không được lưu truyền như dạng một cuốn kinh. Nó tồn tại chỉ nhờ cơ may được lưu giữ ở trong một số ít bản viết tay tìm được từ những hang động Đôn Hoàng. Chúng ta hoàn toàn không biết gì về tác giả của nó, Vương Phu (王敷), ngoại trừ rằng theo lời tựa ông là một Hương cống tiến sĩ (鄉貢進士). Như vậy, ông là một trong số những người có uy tín ở Đôn Hoàng và hầu như chắc chắn thông thạo những văn bản quan trọng của truyền thống văn học trung đại. Bản văn ngắn này dường như là tác phẩm hiện còn duy nhất của Vương Phu, và mặc dù chúng ta không thể xác định niên đại một cách cụ thể, nó cho thấy được sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ VIII và cuối thế kỷ X.
Sau lời mở đầu vắn tắt mà ở đó tác giả đặt ra bối cảnh cho việc tham gia khẩu luận, ông Trà bắt đầu tranh luận bằng việc thách đấu:
“Tất cả chư vị, chớ có om sòm huyên náo mà hãy lắng nghe ta chút nào! Ta là thủ lĩnh của hàng trăm thảo dược và là trái tim của mười ngàn cỏ cây. Ta được gọi là Mính Thảo (茗草), và được đặt tên là trà. Người ta gửi ta làm tặng phẩm cho gia đình của năm tước (五爵/ngũ tước: 公/công, 侯/hầu, 伯/bá, 子/tử, 男/nam), và tặng ta làm quà cho gia đình vua chúa. Đôi khi ta được dâng lên [triều đình] và suốt đời ta hưởng sự hưng vượng và huy hoàng. Đương nhiên, ta là ưu việt và danh giá, và có cần nói gì khác nữa trong việc ca ngợi những công lao của ta.” (Chen 1963, 274-276).
Chúng ta hãy suy nghĩ về việc khai khẩu của ông Trà. Tuyên bố của ông về sự ưu việt trước hết đặt vào vị trí cao quý của ông ở trong thế giới thảo mộc. Ông là thảo mộc thủ lĩnh, chúa của cây cỏ. Có lẽ bởi vị thế của mình, trà là một món quà đắt đỏ mà nó phù hợp không chỉ cho giới quý tộc mà cũng cho chính triều đình. Tuyên bố của ông Trà không phải là khoác lác ngoa ngôn, mà phù hợp với những gì những tác giả đương thời nói về giá trị của trà vào cuối đời nhà Đường. Tuyển tập Bạch thị lục thiếp (白氏六帖) nói rằng trà thì không dành cho người bình dân, mà là một cống phẩm thích hợp dành cho một vị hoàng đế (Bạch thị lục thiếp, 207). Sự thực, mặc dù việc am hiểu trà của các vua chúa phải đầu thế kỷ XI, thì vào đầu thế kỷ IX, ngay cả những vị vua chúa du mục rõ ràng là những người say mê trà Trung Quốc (Ceresa, 1996, 19).
Ông Trà ban đầu tranh luận cho vị trí của mình như một món uống xa hoa. Mặc dù ông không đề cập nó, chúng ta biết rằng vị trí mà trà có được này tương đối gần đấy. Đáp trả của ông Rượu, ngược lại, nhấn mạnh vị trí cao quý cổ xưa của mình, dẫn những tình tiết quan trọng từ lịch sử Trung Quốc vào trong lời biện hộ của mình:
“Thật là một phát ngôn lố bịch! Từ xưa đến nay, trà bị khinh thị trong khi rượu được trọng vọng. Sau khi một ly rượu được rưới xuống sông, binh sĩ của ba quân tất cả có thể trở nên túy lúy. Khi các hoàng đế và vua chúa uống ta, họ trao cho triều thần của họ [quyền để nói] mà không sợ hãi. Khi những quần thần uống ta, họ hô vang ‘[hoàng thượng] vạn tuế!’. Ta được sử dụng cho việc làm nguôi ngoai người chết và xoa dịu [tâm thần] người sống, và ngay cả thần linh cũng ưa thích mùi vị tuyệt hảo của ta. Khi con người được chiêu đãi với rượu và thức ăn, những toan tính xấu luôn vắng mặt. [Khi con người] uống rượu, có những cuộc rượu mà nó khai mở tình yêu thương con người, sự công bằng, sự đúng đắn và trí tuệ!” (Chen 1963, 278-279).
Đáp trả mạnh mẽ của ông Rượu viện đến một nhóm những đức tính mà bất kỳ những nhà viết luận cổ đại giỏi nào phải cần có trong việc viết lách của mình: tiền lệ lịch sử, những nguyên tắc cai trị đúng đắn của vua chúa, và sức mạnh tích cực của nghi lễ trong việc duy trì sự hòa hợp của con người. Trong khi hoàn toàn không nghiên cứu lại những nguồn gốc thần thoại của rượu, ông tuyên bố rằng rượu đã là một diễn viên trong những vở kịch lớn của quá khứ (tham khảo Poo 1990). Logic cổ đại đưa đến tranh luận của ông Rượu là rằng bất cứ thứ gì thuộc về quá khứ thì điều đó xứng đáng được tôn trọng.
Chúng ta có thể suy luận rằng trong khi trà có thể là một sản phẩm triều cống thích hợp thì chính rượu thực sự cho phép vương triều thực hiện chức năng. Một mặt, ông Rượu cho rằng những người trị vì dễ nghe theo lời can gián từ triều thần của họ nếu họ uống rượu. Mặt khác, chính những vị triều thần ấy cần rượu để nâng ly chúc mừng sức khỏe hoàng đế của họ và nhờ vậy thể hiện công khai lòng trung thành của mình. Tuyên bố liên quan đến việc dễ tiếp nhận của hoàng đế đối với sự phê bình có thể chỉ là một hy vọng chung chung, nhưng chắc chắn có những trường hợp uống rượu chúc mừng hoàng đế ở phạm vi lớn được nhiều người biết đến. Ví dụ, khi hoàng đế Cao Tổ (高祖, 206-195 tr.TL) phục hồi lại phẩm cấp ở trong vương quốc, tất cả những quần thần của ông đã chúc rượu mừng sức khỏe ông suốt một ngày (Shiji, 99.2720; Poo 1990, 15).
Đáng nói là, ông Rượu đã có một sự khẳng định mạnh mẽ về tầm quan trọng của rượu trong nghi lễ đối với người chết. Việc sử dụng rượu ở trong ngữ cảnh nghi lễ là được chứng nhận ở trong những nguồn tài liệu cổ nhất mà chúng ta có, và việc thực hành tiếp tục được duy trì ở trong thời trung đại. Trong những bản chữ viết sấm truyền trên xương, rượu cho thấy là chất lỏng duy nhất - cùng với một số tế lễ muông thú - được dâng cúng lên thần linh và tổ tiên (Poo 1990, 17). Đối với những gia đình thời trung đại, rượu là một thứ cần thiết cho việc thực hiện đúng những nghi lễ đối với tổ tiên. Điều đáng nói là ông Rượu rõ ràng nối kết sức mạnh làm nguôi ngoai người chết và khả năng làm khuây khỏa người sống. Nếu chúng ta suy nghĩ cách rượu được sử dụng ở Trung Quốc truyền thống (và thực ra ở những nơi khác) để gia cố những mối quan hệ xã hội và tạo ra một ý nghĩa của cộng đồng, rõ ràng rằng hai khía cạnh này liên quan mật thiết không chỉ về mặt lý thuyết mà cũng ở trong thực tế.
Về những “cuộc uống” mà ông Rượu đề cập ở cuối đoạn trích ở trên, điều này thì phổ biến ở Trung Quốc đời Đường, cho dù chúng có thể hiện “tình yêu thương con người, sự công bằng, sự đúng đắn và trí tuệ” như ông ta tuyên bố hay không thì vẫn còn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Thêm vào những bản văn về uống rượu, chúng ta biết từ những đồ vật đời Đường rằng, rượu, văn chương và luận đàm tao nhã thường được kết hợp. Nhiều trong số những điểm đặc biệt của những tiệc uống của giới quý tộc được chọn phỏng theo những phong tục của những triều đại sớm hơn. Những trình bày văn chương và sáng tác thi ca tự phát là kiểu của thời ấy. Như Donald Harper ghi chú trong nghiên cứu của mình về sách Đại học, nhiều trong số những luật lệ của những tiệc uống của nhà Đường bị đánh mất bởi nhà Tống, có lẽ thú vui của uống được cho là ít sức mạnh ở trong xã hội quý tộc thời hậu Đường.
Tác phẩm đời nhà Đường duy nhất còn tồn tại về những tập quán uống rượu là một kiệt tác của tác giả Hoàng Phủ Tùng (皇甫松) thế kỷ IX, Túy hương nhật nguyệt (醉鄉日月) (Edwardes 1937), 191-192). Tác phẩm của Hoàng Phủ Tùng bao gồm lời khuyên hữu ích như cách xây một “Lầu say” (Túy lâu/醉樓). Nhu cầu để thực hiện một kiến trúc gỗ cao mà ta có thể trèo lên để thưởng thức quang cảnh và trốn khỏi thế giới trần tục mà không phải phiền phức trèo lên một ngọn núi có thể cho thấy sự kiên trì của một số mỹ từ pháp cổ xưa về sự tưởng tượng ở trong môi trường của giới quý tộc sành điệu đời nhà Đường. Bất luận thế nào, như ông Rượu cho ta thấy, trong thời trung đại những chức năng nghi lễ của rượu là không tách rời những thú vui xã hội của nó.
Đoạn tiếp theo của tranh luận của ông Trà được đặt cơ sở trên sự khan hiếm và giá cả của trà như một mặt hàng xa hoa: ông nói rằng người ta vượt qua những rặng núi để thu hái nó, họ mua nô lệ chỉ để làm việc cho những đồn điền trà của họ và họ chứa bột trà quý ở trong những hủ đựng bằng vàng và bạc (Chen 1963, 279). Phương tiện vận chuyển của những thương nhân trà thì chất đầy trà mà chúng tạo nên cảnh tượng quá náo nhiệt (Chen 1963, 280). Lại nữa, ông Trà dường như là đang khăng khăng rằng ông là ưu việt trên những cơ sở thuần kinh tế. Nói cách khác, trà nên được xem như một sản phẩm quý bởi vì nó là độc nhất. Chính giá trị vốn có của trà mà khiến người ta thu hái nó, trồng nó và chuyển nó đi khắp vương quốc.
Ông Rượu đáp lại sự náo nhiệt của việc buôn bán trà thời trung đại với tên gọi của những loại thuốc bổ chữa bệnh nổi tiếng, những thứ rượu mà nó dành riêng cho những người bất tử, hay những vị hoàng đế, và rượu mà nó khiến Chúa Triệu (趙) say trong ba năm. Ông lặp lại tuyên bố về vai trò xã hội của rượu, nói rằng nó được biếu cho xóm giềng để thể hiện sự lịch thiệp và phục vụ tại doanh trại chỉ huy của một đạo quân để giải quyết những sự bất đồng và hơn nữa việc sử dụng này được chứng nhận từ xa xưa. Đối với điều này, ông Trà đáp lại:
“Tôi, Mính Thảo, là trái tim của mười ngàn cây cỏ. Tôi hoặc là trắng như bạc hoặc là vàng như vàng. Những Tăng nhân nổi tiếng, những vị Trưởng lão (bhadanta) và những ẩn sĩ ở trong những ngôi chùa tất cả uống tôi trong khi giảng đạo, vì tôi có thể xua đi sự uể oải và mệt mỏi. Trà được dâng lên Phật Di Lặc và hiến cúng cho Bồ-tát Quán Thế Âm. Hơn một ngàn hay thậm chí mười ngàn kiếp, những Đức Phật khác nhau đều ưa thích tôi. Rượu có thể gây nên sự đổ nát và ly tán gia đình [và khiến con người] làm nhiều điều dâm dật và suy bại.” (Chen 1963, 280).
Trong đoạn này, Phật giáo liên quan mật thiết với trà trong một số cách. Ông Trà nhắc lại tuyên bố về trà là thủ lĩnh trong số các cây cỏ, và giá trị vốn có của trà như được phản ánh ở trong sự giống nhau bề ngoài của nó với những kim loại quý là vàng và bạc. Tiếp theo, ông quy một vài chức năng đặc biệt cho trà - nó giúp cho những Tăng nhân tỉnh táo, và nó là một thức uống đặc biệt thích hợp để dâng cúng chư Phật và chư Bồ-tát. Chứng cứ văn bản đối với việc làm này ở đời Đường đã chứng minh sự hiếm hoi đáng kinh ngạc, mà chúng ta có món đồ trà bằng bạc mà nó được hoàng gia nhà Đường hiến cúng cho chùa Pháp Môn (法門寺) và được khai quật từ hầm mộ di tích vào những năm 80 thế kỷ trước. Chứng cứ vật thể cho thấy rằng trà được sử dụng như một vật phẩm dâng cúng vào đời Đường.
Về khả năng của trà có thể xua đi sự buồn ngủ và tính thiết thực của nó cụ thể đối với các Tăng sĩ, những phẩm chất này đã được ghi chép bởi người quan sát sớm nhất về trà như là thức uống của quốc gia chứ không phải là một đặc sản địa phương. Chính trong suốt thời kỳ Khai Nguyên (開元 713-724) mà mối liên hệ giữa những vị Thiền tăng và trà được thiết lập. Trong “Ghi lại những điều mắt thấy tai nghe” (Record of Things Seen and Heard) của Feng chúng ta thấy:
“Những người miền Nam thích uống [trà], nhưng ban đầu ít người miền Bắc uống nó. Vào thời Khai Nguyên có Pháp sư Hàng Ma (降魔)của chùa Linh Nham (靈巖寺) trên núi Thái Sơn (泰山). Ông năng nổ truyền bá giáo pháp Thiền. Trong nghiên cứu về Thiền, ông nhấn mạnh việc không ngủ nghỉ, và cũng không ăn vào buổi tối. Vì vậy ông cho phép tất cả [những đệ tử của ông] uống trà. Dân chúng noi theo họ, và khắp nơi người ta đun và uống [trà].” (Fengshi wenjian ji, 6.46; tham chiếu Kieschnick 2003, 267).
Theo tài liệu hiện hành này trà rõ ràng là một sản phẩm mới ở miền Bắc mãi cho đến khi một vị Thiền tăng bắt đầu đam mê uống trà như là đạo giáo của mình.
Quay trở lại biện luận của ông Trà: ông liên kết những lợi ích của trà với nhau - mà ông nghĩ theo những thuật ngữ Phật giáo - với bắt đầu việc tranh luận của ông chống lại rượu (rượu là có hại đối với đời sống gia đình), mà chúng ta sẽ thấy ông triển khai bên dưới.
Ông Rượu phản đối - có lẽ trong việc đáp trả tuyên bố trước đây của ông Trà về giá trị thực chất của việc uống - rằng trà trong thực tế là một sản phẩm rẻ tiền khi so sánh với rượu. Ông nói rằng một bình trà lớn giá chỉ ba tiền. Ông tiếp tục nhấn mạnh sự cổ xưa cao quý của rượu và việc sử dụng của nó ở trong những đại yến tiệc và những cuộc vui chơi trong quá khứ. Ông nói, không có người nào muốn ca vũ chỉ vì một tách trà. Do đó, có lẽ phần nào ngạc nhiên, ông tập trung vào sức khỏe liên quan đến những khía cạnh của trà. Ông cảnh báo những hậu quả tệ hại của việc lạm dụng trà:
“Uống trà chỉ khiến đau lưng. [Nếu ai] uống quá nhiều, họ sẽ bị bệnh bao tử. Nếu ai uống một tách trà một ngày, bụng của người ấy sẽ giống y như một cái trống. Nếu ai uống trà trong ba năm, người ấy chắc chắn có [tướng mạo] của một con ếch và kết quả bị trướng bụng.” (Chen 1963), 281).
Mặc dù trà xanh hầu như được mọi người xem là tốt cho sức khỏe ngày nay, nó dường như rằng vào đời Đường, ông Rượu không phải là người duy nhất tuyên bố chất uống mới này như là một thức uống tiềm tàng nguy hiểm. Đại Đường tân ngữ (大唐新語) cho chúng ta biết rằng Vô Quýnh (毋煚cuối thế kỷ VIII) đã viết “Lời tựa chống lại việc uống trà”, ở một thời điểm nào đó vào thời Khai Nguyên. Mặc dù tác phẩm đáng tiếc là không còn tồn tại, một bản tóm tắt còn sót lại bắt đầu thế này:
“[Trà] xua đi những uể oải, nhưng lợi ích kéo dài chỉ có một ngày duy nhất và chỉ là tạm thời. Nó làm suy yếu khí (氣) và xâm phạm tinh (精), vì vậy sự tích tụ gây hại cho cơ thể thật sự to lớn. Nếu [người ta] có được sự cải thiện nào đó [nơi sức khỏe] của họ thì họ quy điều đó là do sức mạnh của trà, nhưng nếu có một số hiểm họa, họ không nói đó là khiếm khuyết của trà. Phải chăng rằng khi cơ may cận kề thì dễ dàng nhận ra nó, nhưng khi rủi ro đến thì không ai [dám] nhìn nó hay nói về nó?” (Da tang xinyu, 11.166; Taiping guangji, 143.1028).
Mặc dù Vô Quýnh và ông Rượu quy những triệu chứng phần nào khác nhau cho ông Trà, họ đều mạnh mẽ trong việc mô tả của mình về trà như là một chất độc hại.
Khi cuộc chiến tiếp tục, ông Trà lại kiêu hãnh về danh tiếng và vận may của mình và sau đó tấn công vào ông Rượu với những buộc tội về những ảnh hưởng gây say nghiện của thức uống mạnh:
“Ông Rượu, ông làm cho người ta say nghiện và loạn trí. Sau khi uống rượu, người ta trở nên lắm lời. Trước mặt bàn dân thiên hạ trên đường, ít nhất bảy trong mười người uống rượu thì đều trở về nhà trên lưng [bạn của họ].” (Chen 1963, 281).
Ông Rượu đẩy việc tranh luận ra khỏi việc say nghiện và kiên định xoáy vào lĩnh vực văn hóa, quay lại chủ đề lịch sử và nghi lễ. Ông tuyên bố rằng những lời nói truyền từ xa xưa xác tín rượu có khả năng nuôi dưỡng đời sống, xua tan lo lắng và tu bồi trí tuệ. Ông lặp lại khẳng định của mình rằng trà có giá rẻ hơn rượu (ba tiền có năm chén trà trong khi bảy tiền chỉ được nửa ly rượu). Rượu cần cho việc tiếp đãi lịch thiệp những vị khách của ta. Ông nói thêm rằng rượu là quan trọng cho việc thực hiện đúng âm nhạc tại những buổi lễ đất nước: “Nếu [những nhạc sĩ] uống trà suốt buổi sáng, họ [sẽ không] dám chạm vào nhạc cụ của họ dù chỉ một chốc.” (Chen 1963, 282).
Ông Trà kết luận tranh luận của mình bằng việc chỉ ra một vài hành xử con người liên quan đến say rượu. Ông nói rằng người ta không đến cửa hiệu rượu cho đến khi họ 14 hay 15 tuổi (có lẽ hàm ý rằng rượu là một sở thích do thói quen). Ông đề cập đến câu chuyện Phật giáo về con chim Sinh Sinh (生生, Jivajivaka) mà nó mất mạng bởi vì rượu. Ông kháng cự cáo buộc rằng trà gây nên bệnh tật và nói thêm rằng chính rượu gây nên những bệnh tật. Trích dẫn ví dụ khác từ Phật giáo, ông đề cập đến A Xà Thế (Ajātaśatru), hoàng thái tử nối ngôi của Ma-kiệt-đà vào thời Đức Phật và con trai của vua Bình Sa Vương (Bimbisāra), người đã sát hại cha mẹ của mình vì rượu.
Ông nói, bởi vì rượu mà Lưu Linh (劉伶, 265 TL) đã say túy lúy trong ba năm. Lưu Linh là một vị thánh hiền trong bảy vị thánh hiền (thất hiền) của rừng Trúc (Trúc lâm) và tác giả của bài thơ nổi tiếng Tửu đức ca(酒徳歌). Cuối cùng, ông kết luận với những ví dụ quen thuộc hơn. Ông nói, người say rượu chắc chắn chung cục bị bắt giữ:
“Tòa án sẽ yêu cầu ông ta trả một số tiền phạt. Gông cùm lớn gông cổ ông ta và xà gỗ đặt lên lưng ông ta. Sau đó ông ta sẽ đốt hương [hứa] từ bỏ rượu. Ông ta sẽ niệm danh xưng Đức Phật và cầu xin Ngọc hoàng thứ tha.” (Chen 1963, 283).
Ông Trà cho thấy đã đánh mạnh với một thông điệp mà nó kết hợp việc uống trà với không uống rượu. Nhưng cuối cùng cả ông Trà và ông Rượu không ai giành chiến thắng. Sự việc được giải quyết bởi việc xuất hiện của ông Nước, người tuyên bố sự ưu việt của mình như là một trong Tứ đại (đáng chú ý là ông đề cập đến khái niệm tứ đại của Phật giáo chứ không phải ngũ hành theo truyền thống bản xứ) và là nguồn của cả rượu và trà. Ông ấy vô cùng kiêu ngạo:
“Tôi còn không cho mình là có năng lực và thiêng liêng, vậy những gì cần thiết ở đây để hai vị tranh luận về phẩm chất của mình? Từ bây giờ trở đi, hai vị phải thân thiết và cộng tác với nhau, để những cửa hiệu rượu sẽ được phát đạt, trong khi tiệm trà sẽ không túng quẫn…, và nếu người ta có đọc bản văn này sẽ không ai bị điên lên với rượu hay trà!” (Chen 1963, 284).
Uống và việc sử dụng nước trong nghi lễ ở Trung Quốc trung đại là một đề tài hấp dẫn, nhưng điều đó đưa chúng ta ra quá xa khỏi đây. Thay vì vậy, chúng ta cần khảo sát ngữ cảnh mà ở đó cuộc chiến giữa trà và rượu hình thành nên.
Phật giáo và rượu
Trong Trà tửu luận, Phật giáo đứng phía sau nhiều cuộc tranh luận mà ông Trà sử dụng chống lại việc uống rượu. Bây giờ chúng ta hãy xem xét cơ sở của một vài quan điểm Phật giáo này. Những phát ngôn chỉ trích việc uống rượu quá độ có thể tìm thấy trong kinh sách Nho giáo nhưng khái niệm bao quát hơn về “không uống rượu” ở Trung Quốc trung đại thì hầu như có khả năng là một nguồn cảm hứng Phật giáo. Chúng ta có thể xem xét quan điểm này từ ba điểm: (1) thế giới quan; (2) giới luật; và (3) thực tiễn. Với “thế giới quan”, tôi muốn nói những vấn đề như những giá trị được gán cho rượu và cho sự say xỉn ở Trung Quốc trung đại. Từ những loại hoạt động và giáo thuyết gì mà những Tăng sĩ và cư sĩ Phật giáo tránh xa việc uống rượu? Có giá trị tích cực được quy cho rượu thật sự ăn sâu trong văn hóa Trung Quốc hoàn toàn bị chống lại bởi việc truyền bá Phật giáo? Về “giới luật”, chúng ta sẽ xem cách những giới luật Phật giáo chống lại việc tiêu thụ những chất gây say được định rõ trong kinh sách. Trong thực tế, chúng ta sẽ thấy rằng biện luận của kinh sách Phật giáo không phải luôn liên quan đến thực tế đời sống ở trong một tự viện trung đại.
Để xem xét những vấn đề này chúng ta có thể cần đến một phạm vi rộng các nguồn: chương về rượu và thịt từ bộ Pháp uyển châu lâm (法苑珠林) của Phật giáo Trung Quốc vào thế kỷ VII và những kinh sách Phật giáo khác; bài thơ của một cư sĩ Phật tử; một bản văn về hành xử đạo đức; và những ghi chép về tự viện và những tổ chức cư sĩ Phật tử từ Đôn Hoàng.
Những giá trị tích cực của rượu ở Trung Quốc trung đại
Mặc dù rượu rõ ràng góp phần vào lịch sử văn hóa phương Tây, thì hầu như ở phương Tây không có một nhóm được xem như những anh hùng văn hóa được quý trọng như “bảy vị thánh hiền ở rừng Trúc” (Trúc Lâm thất hiền), mà đối với họ việc suốt ngày say xỉn thì hầu như là một sứ mệnh thiêng liêng. Cũng không có một bản văn mà nó tương tự như điều mà ta có thể gọi là “chủ nghĩa không tưởng về rượu” như tác phẩm Túy hương ký (醉鄉記) của Vương Tích (王績). Trong văn học Trung Quốc đầu thời trung đại, có một sự kết hợp giữa việc say rượu và tự do tinh thần. Như được lưu ý nơi thảo luận của chúng ta về Trà tửu luận, rượu được sử dụng trong việc truyền thông với thế giới ngoài con người, nó là một thành phần cần thiết của nghi lễ quốc gia, và cũng được yêu cầu tại những nghi lễ như cưới hỏi, chào đời hay tang ma. Rượu được dâng cúng đến mức thần linh trở thành say khướt (Mao, 209).
Ngay ở trong ngôn ngữ tương đối tinh tế của thi ca thời Đường, chúng ta bắt gặp tiếng vang đặc biệt của loại say rượu shaman mà nó thuộc một biểu hiện sớm hơn nhiều đời sống tôn giáo của người Trung Quốc (Schafer 1977, 136). Những nhà thơ chẳng hạn như Vương Duy (王維701-761) và Bạch Cư Dị (白居易,772-846) mà họ rõ ràng là những tín đồ thuần tín Phật giáo cũng đã viết nhiều bài thơ về thú vui của việc uống rượu. Bạch Cư Dị đặc biệt thường xuyên tán dương cả rượu và việc say rượu, mặc dù ông cũng viết nhiều về trà.
Ở Trung Quốc trung đại, nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong nỗ lực kiểm soát việc sản xuất hay tiêu thụ rượu, mặc dù ít nhiều không thể đánh giá được những biện pháp này. Ngoài một vài chỉ dụ được hoàng đế Cao Tổ ban hành vào năm 619 và Túc Tông (肅宗 756-762) vào năm 758, hầu như những luật lệ liên quan đến rượu mà chúng được ban hành trong suốt đời Đường là chính yếu liên quan đến việc đánh thuế vào rượu, và duy trì sự độc quyền về rượu của nhà nước. Sự thực, những vị hoàng đế đời Đường dường như đã làm nhiều thứ để cổ xúy việc uống rượu hơn là hạn chế nó. Những lễ hội uống rượu công cộng lớn được gọi là Bô (酺), mà nó có nguồn gốc ở nhà Hán, đã được phục hồi dưới thời nhà Đường để tổ chức ăn mừng những chiến thắng quân sự, hay việc chào đời của một vị hoàng thái tử (Schafer 1965, 130-34).
Nếu những thi nhân, chẳng hạn như bảy vị hiền nhân ở rừng Trúc và những người nối gót họ về sau, đã tách họ ra khỏi những người mà về phương diện chính trị là đầy quyền lực bằng việc say đắm vào việc uống rượu mạnh và dùng thuốc phiện, những Phật tử nói chung phân biệt họ bằng việc kiểm soát có nguyên tắc về những gì họ ăn và uống. Ở xã hội quý tộc của Lục Triều và đời Đường, rượu đã hoạt động không chỉ như chất bôi trơn và cảm hứng xã hội, mà cũng cung cấp một lĩnh vực chung về sự tương tác dành cho những người đàn ông có học (và hiếm hơn, dành cho những phụ nữ có học). Chính từ khía cạnh này mà những Phật tử có lẽ thấy họ bị ngăn cách bởi ảnh hưởng của giới không uống rượu của họ. Thái độ của những Phật tử đối với rượu có thể khiến họ chống lại những giá trị văn hóa phi Phật giáo hơn, tức là, thái độ của họ đối với tình dục, thịt, ca vũ - những thứ cũng bị giới luật ngăn cấm.
Giới luật, rượu và say rượu: Quan điểm Phật giáo
Mặc dù bất kỳ sự công kích nào về rượu trong suốt thời nhà Đường chính yếu đến từ phía Phật giáo, ta không nên hoàn toàn loại trừ những quan điểm tôn giáo và tri thức khác - chẳng hạn như của Đạo giáo. Sự thật rằng Tư Mã Thừa Trinh (司馬承禎 647–735) và Thượng Thanh (上清), đạo trưởng và cố vấn của hoàng đế Huyền Tông (712-755), cảnh báo chống lại rượu ở trong Tọa vong luận (坐忘論), nhưng nhiều bản văn khác của Đạo giáo đề nghị tiêu dùng rượu một cách điều độ. Việc tìm kiếm một bộ sưu tập đại diện chẳng hạn như Vân cấp thất bộ chi anh (雲笈七部之英) - một tài liệu sưu tập đời Tống về những nguồn tài liệu sớm nhất - không cung cấp bằng chứng về bất kỳ sự chỉ trích liên quan và được chứng thực rộng rãi nào về uống rượu ở trong những nguồn tài liệu Đạo giáo giống như điều được tìm thấy ở trong tài liệu Phật giáo. Những cấm đoán của Đạo giáo về rượu thường dường như là sự mô phỏng những mô thức Phật giáo.
Việc cấm uống những chất gây say nghiện là cơ bản đối với việc thực hành Phật giáo khắp thế giới. Giới chống lại việc uống rượu là một trong năm giới mà người cư sĩ tại gia tuân giữ (優婆塞五戒, upāska pana śila): không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống thức uống gây say. Nó cũng là một trong mười giới mà một vị Sa-di thọ trì, một trong 48 giới Bồ-tát, cũng như một trong những giới luật dành cho Tỳ-kheo. Theo Prātimokṣa, việc một Tỳ-kheo sử dụng thức uống gây say được xếp vào tội pātayantika (ba-dật-đề). Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy rằng Trung Quốc thế kỷ XV có một vài băn khoăn về cả cách giải quyết và tiêu dùng rượu mà nó muốn luật lệ này được giải thích khắt khe hơn có lẽ được mong đợi. Sự thật rằng người tại gia cũng phát nguyện không uống rượu mà nó dường như là nguyên nhân của những vấn đề liên quan đến sự phân loại sự phạm tội uống rượu. Nhưng cho thấy rằng khái niệm kiêng cữ rượu không có lai lịch bản xứ, nó có lẽ không ngạc nhiên rằng giới kinh chính yếu nhằm vào người cư sĩ và sinh ra ở Trung Quốc tạo nên một vấn đề lớn về nó như vậy.
Rượu
ở trong Pháp uyển châu lâm
Pháp uyển châu lâm (法苑珠林) của Đạo Thế (道世 600-683) là một nguồn tài liệu hấp dẫn, những đã không được sử dụng đầy đủ cho việc nghiên cứu Phật giáo đời nhà Đường và lịch sử xã hội. Nó là bộ “bách khoa từ điển” Phật giáo lớn nhất và đầy đủ nhất còn tồn tại trong kho tàng kinh sách Trung Quốc. Chương thứ 93 của nó miêu tả đầy đủ nhất về thái độ của Phật giáo Trung Quốc đối với vấn đề uống, ít nhất như chúng được hiểu bởi một vị Tăng cuối thế kỷ VII mang khuynh hướng học thuật. Chương này cũng xuất hiện trong tập 17 của bộ sách 20 tập của Đạo Thế là Chư kinh yếu tập (諸經要集). Chương được đặt tên là “Tửu nhục phiên” (酒肉萹) mặc dù trong thực tế hai chủ đề được xem hoàn toàn tách rời. Nó đối chiếu nhiều tài liệu kinh sách và đưa ra một ngữ cảnh cho việc giải thích những lời nói của những nhà chú giải khác về giới chống lại rượu.
Đạo Thế miêu tả rượu như là “con đường dẫn đến sự bất nghiêm và lười nhác”. Ông nói rằng những Thánh tăng biết rằng rượu là nguyên nhân của khổ đau và do đó từ bỏ việc uống rượu và tránh xa những người say rượu. Tuy nhiên, việc uống rượu là điều cần phải được xem xét ở trong ngữ cảnh, và có những thời điểm khi “nhờ việc uống rượu ta tránh một sự phạm tội lớn hơn”. Đạo Thế trích dẫn ở đây một vài đoạn liên quan từ Vị tằng hữu nhân duyên kinh (未曾有因緣經). Trước hết, thái tử Kỳ-đà (Jeta/祇陀) than phiền với Đức Phật rằng trong năm giới ông thấy giới không uống rượu là khó giữ và ông sợ rằng mình có thể phạm tội. Ông giải thích rằng sự thật ông đã uống rượu với một vài vị đại thần của triều đình, nhưng rằng ông giữ giới trong tâm trong khi làm như vậy. Đức Phật an ủi ông và nói rằng nếu mọi người giống như ông, sẽ không có vấn đề gì với việc họ uống trong suốt cuộc đời họ. Sự thật rằng người ta có khuynh hướng tạo nghiệp xấu khi họ uống rượu.
Kế tiếp, Đạo Thế thuật lại câu chuyện cách vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) được can ngăn giết vị đầu bếp của mình trong một cơn giận nhờ sự can thiệp kịp thời của người vợ Mallika (Mạt Lợi) của ông. Mallika trước hết nói dối ông và sau đó làm rối trí ông bằng rượu, thịt, trang điểm, ca vũ và tình dục - mặc dù bà đã thọ tám giới cấm ở trước Đức Phật. Nhà vua lúng túng bởi việc phạm 6 trong 8 giới của bà và đã thỉnh hỏi Đức Phật và Ngài nói rằng không có sự phạm tội bởi vì phước đức mà bà đã tích tập qua việc ngăn chặn một sự sát hại.
Câu chuyện khác kể về cách vua Prasenajit ngăn chặn mối đe dọa cuộc nội chiến ở vương quốc của mình bằng việc tổ chức một bữa tiệc mà ở đó ông phục vụ rượu cho những phe nhóm mâu thuẫn, và những người này đã quên đi những bất đồng của họ nhờ một vài thức uống. Bằng việc lựa chọn những trường hợp này, Đạo Thế thể hiện việc hiểu giới luật của ông: rượu được phép như một phương cách trong những trường hợp mà ở đó say rượu khiến cho người ta quên đi mọi ý đồ xấu. Trong ba trường hợp từ bản văn này, trong một vài trường hợp, Đức Phật rõ ràng bỏ qua việc uống rượu của người thế tục (trong những trường hợp này là vua và hoàng hậu) mà họ giữ năm hoặc tám giới.
Tuy nhiên, có những nơi ở trong kinh sách mà nó cấm việc uống rượu trong mọi trường hợp. Đạo Thế gom lại một vài trong số đó. Trước hết, trong Tứ phần luật (四分律), Đức Phật nói: “Đối với đệ tử của ta, cho dầu một giọt rượu từ trên đầu ngọn cỏ cũng không được cho vào miệng”. Đạo Thế bình luận về điều này: “Trường hợp uống nhiều thì thật tệ hại biết bao. Mỗi ngụm còn gây nên sự câu thúc”. Tuy nhiên, đoạn kế tiếp, từ Thành thật luận (成實論, Satyasidhiśāstra), cho chúng ta biết rằng uống rượu không được định rõ như một việc làm thực sự sai trái bởi vì nó không trực tiếp làm hại chúng sanh mà chỉ là một nguyên nhân cơ bản của việc làm sai trái.
Trong kinh sách, có nhiều danh sách liệt kê những quả báo của việc uống rượu. Chúng đặc biệt nhấn mạnh vào khổ đau mà người say rượu và gia đình của người này chuốc lấy trong đời sống hiện tại hơn là nhấn mạnh vào sự trừng phạt ở trong địa ngục và khổ đau trong những đời sống kế tiếp. Ưu-bà-tắc giới kinh (優婆塞戒經, Upāsakaśīla sūtra) liệt ra năm điều mất (失): mất tài sản, bệnh tật, thanh danh xấu, ngu đần, và sau khi chết đọa vào địa ngục mà nơi ấy người ta chịu “khổ đau cùng cực của sự đói khát”. Kinh Trường A-hàm (長阿含經) đưa ra một bản liệt kê sáu thứ mất: mất tài sản, phát sinh bệnh tật, thích gây gổ, mang tai tiếng trong thị thành, sanh khởi bất chợt tham dục hay tàn độc, và làm hại trí óc của ta mỗi ngày. Đại trí độ luận (大智度論) liệt kê không ít hơn 35 điều mất mát, điều mà Pháp uyển châu lâm không sao chép. 36 điều mất của Sa-di-ni giới kinh (沙彌尼戒經) chỉ được liệt một phần: đường về nhà bị phá hỏng (cả ẩn dụ lẫn nghĩa đen), mối đe dọa đối với thân thể, không kính Phật-Pháp-Tăng, không có khả năng tụng đọc kinh điển, và không biết về những sự tái sanh kế tiếp. Ngu đần là chủ đề chung ở trong những bảng liệt kê này và xuất hiện lại trong một bài kệ từ Đại tát-già-ni can tử sở thuyết kinh (大薩遮尼乾子所説經), mà nó cũng nói rằng rượu khiến người ta đánh mất phước đức của mình.
Những tác giả Phật tử hẳn xem xét mọi khả năng liên quan tới rượu, ngay cả trường hợp thực hiện hay nhận một món quà là rượu. Thập trụ tỳ-bà-sa luận (十住毗婆沙論) được trích dẫn để giải thích rằng một vị Bồ-tát có thể đem rượu cho người cần nó, vì lòng bố thí, nhưng sau đó Bồ-tát nên dạy cho người nhận từ bỏ rượu, và thay vào đó tập trung vào phát triển trí tuệ. Như Đạo Thế kết luận: “Nếu một vị Bồ-tát tại gia cho rượu, điều đó hoàn toàn không phải là một việc làm sai trái”. Chúng ta có thể nhận thấy ở đây rằng lời của ông rõ ràng mâu thuẫn với lời của Ưu-bà-tắc giới kinh mà nó nói rằng: “Bồ-tát… không bao giờ cho người khác rượu, chất độc, gươm giáo và v.v... bất kể là họ đã đạt được sự tự chủ hay chưa”.
Phạm võng kinh (梵網經) là một trước tác của Trung Quốc vào thế kỷ V mà nó có những ảnh hưởng sâu rộng khắp Đông Á. Mặc dù giới Bồ-tát ở trong đó nói chung được xem là nhẹ nhàng hơn những giới trong Luật tạng, giới liên quan đến rượu đưa ra một quả báo vô cùng khắc nghiệt:
“Nếu, với chính tay của mình, các vị chuyển một cốc rượu đến người nào đó mà họ uống nó, thì trong 500 kiếp kế tiếp các vị sẽ phải sanh làm người không có một cánh tay. Vậy còn nếu chính các vị uống rượu thì nó sẽ tồi tệ như thế nào?”
Quả báo khốc liệt xuất hiện ở trong chương thứ hai của 48 giới khinh của kinh Phạm võng. Giới thứ năm của mười trọng giới [mà, ở trong việc mô phỏng của Vinaya, được đặt tên là “pārājika” (những tội bị buộc phải ra khỏi, tức là trục xuất khỏi Tăng đoàn)] là như sau:
“Nếu Phật tử tự mình buôn bán rượu hay dạy người khác làm như vậy, hoặc là nhân buôn bán rượu, duyên buôn bán rượu, cách thức buôn bán rượu, nghiệp buôn bán rượu. Vị ấy không được mua bán bất kỳ thứ rượu gì. Chính bởi vì rượu làm sanh khởi nguyên nhân và điều kiện của việc làm sai trái. Một vị Bồ-tát được nghĩ rằng sẽ khơi dậy trí tuệ trong chúng sanh, ngược lại nếu Bồ-tát làm cho tâm chúng sanh điên đảo, thì Bồ-tát phạm tội bà-la-di (pārājika)”.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng trong bản tiếng Hán về các giới Bồ-tát, mà nó áp dụng cho người cư sĩ cũng như cho Tăng-già, giới không uống rượu mang nhiều sức nặng hơn Vinaya của Ấn Độ. Chúng ta có thể cho rằng với việc khuyến khích ăn chay nơi Phật giáo Trung Quốc, người tại gia thực sự là sức đẩy của sự thay đổi.
Một số kinh sách liên quan đến rượu, chẳng hạn như Phạm võng kinh, là riêng của Phật giáo Trung Quốc trong khi những kinh sách khác cũng được biết trong những truyền thống Phật giáo khác. Hai loại kinh sách này đứng sát bên nhau trong bộ sách của Đạo Thế, gia cố cho nhau. Một ví dụ trong trường hợp sau là câu chuyện vị Tỳ-kheo Svāgata và rắn thần (nāga), một bản văn trọng tâm ở trong việc bài trừ rượu của Phật giáo mà nó được chứng thực ở trong tất cả Vinaya. Câu chuyện là như sau: Sau khi phá bỏ kinh thành của một rắn thần (nāga) bằng phương tiện thần thông, Svāgata đã trở nên say khướt khi ông được dân chúng dâng cho một số rượu tại một bửa ăn vinh danh ông. Sáng hôm sau, khi Đức Phật nhận thấy vị Tỳ-kheo khốn khổ nằm bất tỉnh bên ngoài cổng tịnh xá, Ngài đã thuyết giảng cho những Tỳ-kheo khác về khả năng nguy hiểm của rượu là đã làm biến đổi ngay cả người tiến bộ về mặt tâm linh và khiến họ mất hết nhân cách.
Có một câu hỏi mà nó có thể xuất hiện trong tâm thức của nhiều người Trung Quốc trung đại là có rượu ở trên thiên giới hay không. Theo kinh sách, thực sự có rượu cho những người có đủ may mắn được sanh về cõi trời của vua Yama, ít nhất theoChánh pháp niệm xứ kinh (正法念處經, Saddharma-smṛtyupasthāna-sūtra). Tuy nhiên, đây không phải là một thứ rượu thông thường - nó được làm từ tịnh nghiệp chứ không phải từ chưng cất từ ngũ cốc, nên kết quả nó không gây say. Nhưng ngay cả thú vui của thứ thiên tửu này cũng không được phép tin tưởng. Một con chim có tên gọi là “Hạnh phúc vĩnh cửu” xem chư thiên uống rượu và hót lên lời cảnh báo rằng uống rượu làm mê muội tâm thức. Vua Yama cũng tụng đọc một bài kệ trừng phạt những người uống rượu này rằng họ sẽ bị đọa vào địa ngục.
Chúng ta nhận thấy trong Trà tửu luận rằng rượu được sử dụng như thuốc. Đạo Thế bình luận về việc sử dụng thích hợp của những thứ thuốc như vậy. Theo ông, “nó là cần thiết đối với người bị bệnh đau thật sự và ở trong tình trạng bệnh nghiêm trọng”, và khi này người ta uống rượu như một vị thuốc; nhưng ông cũng ngăn ngừa người đọc trích dẫn kinh sách một cách sai lầm để uống rượu.
Đạo Thế kết luận nghiên cứu của ông về rượu với với một đoạn từ A-tỳ-đạt-ma đại tỳ-bà-sa luận (阿毘達磨大毘婆沙, Abhidharmamahāvibhāṣāśāstra), ở đó Tôn giả Xá Lợi Phất bị lăng mạ bởi một vị du sĩ ngoại đạo, người cho rằng ông ta đã có được trí tuệ nhờ rượu. Họ tranh luận bằng những bài kệ mà chúng mô tả những phẩm chất trí tuệ của họ và Xá Lợi Phất rõ ràng nổi bật lên như là người chiến thắng.
Bản khảo sát vắn tắt này về tài liệu kinh sách có giá trị đối với những Phật tử có học thời trung đại cho thấy rằng không thiếu tài liệu cho một chiến dịch chống lại việc say rượu. Trong khi rõ ràng có một vài lỗ hổng ở trong những luật lệ, những quả báo nói chung về uống rượu được trình bày đầy đủ chi tiết và bằng những thuật ngữ hoàn toàn nghiêm ngặt. Những tài liệu được tạo ra ở Trung Quốc là thuộc số ít khoan dung nhất về mặt này.
Rượu trong những tài liệu Đôn Hoàng
Trong khi Pháp uyển châu lâm rọi soi vào một số tài liệu mà chúng được những Tăng sĩ ở kinh đô giữa thế kỷ VII biết đến, những quan điểm về rượu có thể cho thấy phần nào khác nhau trong những bản văn từ những nguồn khác. Chúng ta có thể nhận thấy cả thái độ đam mê và thái độ không can thiệp. Một bản kinh đặc biệt từ Đôn Hoàng, Đại phương quảng hoa nghiêm thập ác phẩm kinh (大方廣華嚴十惡品經), đã xác định rõ không uống rượu là một phẩm hạnh chính của những đệ tử chân thực của Phật. Bất chấp tên gọi của nó, bản kinh trong thực tế chỉ tập trung vào ba hành vi xấu ác - uống rượu, ăn thịt, và không tôn trọng những ngày trai. Nó bắt đầu bằng việc liệt ra năm phương tiện cho việc tu tập phạm hạnh: không sát sanh, không hành xử phóng túng, không uống rượu, không ăn thịt, và luôn thực hành lòng từ bi. Khi ấy Bồ-tát Kāśyapa hỏi Phật:
“Có phải điều Đức Thế Tôn đã thuyết giảng là rằng những người mà họ đã thọ nhận giáo pháp của Phật thì không nên uống rượu?” Đức Phật trả lời: “Tất cả những người mà họ không uống rượu, đấy là những người con trai chân thực của ta, và không phải là những người phàm phu mà là những thiện nam tử… Những người mà họ thọ nhận giới, cho dù họ thọ nhận năm giới, hay 250 giới, hay toàn bộ oai nghi, không ai trong họ được phép uống rượu… Nếu một vị Tăng hay Ni phạm Prātimokṣa này, thì họ sẽ đọa vào địa ngục. Nếu một người tại gia phạm [giới này] và làm một việc làm sai trái mà đó là duṣkṛta [một việc làm xấu nhỏ], thì họ sẽ đọa vào địa ngục trong 80.000 kiếp… Những người đã thọ nhận giới của ta không thể rót rượu cho người khác, và không được vào cửa hàng bán rượu, khuyến khích người khác uống rượu, hay xúi giục người khác uống rượu… Họ không được rót rượu cho chư Tăng. Nếu họ làm như vậy thì 500 kiếp [họ sẽ sanh] làm người không có tay. Họ không được xúi giục chư Tăng uống rượu. Nếu họ làm như vậy thì trong 500 kiếp họ sẽ bị điếc; việc nghe của họ sẽ bị cắt đứt; họ sẽ không bao giờ nghe âm thanh hay lời nói. Nếu họ ép một vị Tăng uống rượu họ sẽ đọa vào địa ngục Raurava (địa ngục Hào khiếu 號叫地獄).
Bản kinh này mở rộng những tranh luận chống lại việc uống và sản xuất rượu mà đó là một đặc điểm của những kinh sách về giới luật ở thế kỷ V, điều chúng ta đã thảo luận ở trước. Nếu thái độ chống uống rượu mạnh mẽ này điển hình cho một vài loại phong trào Phật giáo phổ biến mà những vị Tăng triều Đường hay những vị Tăng kinh thành xem như là nguy hiểm, điều này có thể giải thích cho việc vắng mặt sự thảo luận về mua bán rượu ở trong Pháp uyển châu lâm.
Ngoài những kinh sách Phật giáo bản địa và Trà tửu luận, có những tài liệu khác ở Đôn Hoàng mà chúng sẽ giúp chúng ta điền đầy đủ vào cái nhìn của chúng ta về rượu. Thái Công gia giáo (太公家教) là một tài liệu cách ngôn đạo đức không rõ ngày tháng. Nó cho thấy đã được đọc rộng rãi khi được sử dụng như một cuốn sách vỡ lòng cho giáo dục trẻ em từ đời Đường xuyên qua đời Tống. Nó chứa đựng một số tranh luận đạo đức chống lại việc uống rượu mà đó rõ ràng không phải là một quan điểm Phật giáo, mặc dù chúng dường như lấy cảm hứng từ những quan điểm Phật giáo.
Uống rượu là thứ đầu tiên trong ba thứ suy đồi đạo đức (tam suy 三衰; hai thứ còn lại là tà dâm và trộm cắp), và là một trong những nguyên nhân của nghèo đói. Hay nó là điều thứ tư trong mười điều xấu ác (thập ác十惡), lại là một nguyên nhân của nghèo đói và có vị trí xã hội thấp. Rượu (cùng với tình dục) khiến cho người ta sầu khổ: “Thèm khát rượu và chạy theo sắc đẹp của [nữ nhân] là tội lỗi đầu tiên”. “Uống rượu và chạy theo nữ nhân là điều ngu si đầu tiên”. Uống rượu khiến làm hại thân thể: “Uống rượu có thể hủy hoại thân thể - (vì vậy) hãy tránh xa nó”. Rượu là “thuốc mà nó làm người ta điên dại (cuồng dược 狂藥)” và khiến người ta hành xử thô lỗ. Rượu làm người ta hành động một cách thù hằn. Rượu bị cấm đối với người trẻ: “Khi con trai bạn trưởng thành, chớ để nó tập tành uống rượu”. Người ta nên tránh say rượu: “Bậc thánh tránh xa những vị khách say rượu”, và “Bậc thượng nhân kinh sợ việc say rượu”.
Vì hiểu biết của chúng tôi về Thái Công gia giáo là vô cùng giới hạn nên không thể nói những tranh luận chống lại rượu này được kết hợp lại với nhau lần đầu tiên vào khi nào. Mặc dù chúng có thể xuất phát từ những nguồn Phật giáo, chúng được viết lại bằng ngôn ngữ không phải Phật giáo, và được gán cho một vị thánh Trung Quốc cổ xưa chứ không phải Đức Phật. Chúng ta có một vài chứng cứ rằng những quan điểm Phật giáo về rượu đã tạo nên một vài sự xâm nhập trong số những người Trung Quốc mà không phải là những Phật tử nhiệt thành.
Phần nào tương tự trong thể thức và giọng điệu với những cách ngôn của Thái Công là một vài bài thơ của một nhà thơ Phật tử đời Đường, Vương Phạm Chí (王梵志). Niên đại của ông thì không được biết nhưng tên và những trích dẫn từ thơ của ông xuất hiện ở trong những kinh sách Phật đầu thế kỷ IX, mà nó cho biết rằng ông hành hoạt vào cuối thế kỷ VIII. Biệt danh của ông không chỉ cho quốc tịch của ông, mà thể hiện sự sùng đạo của ông với những lý tưởng của một cư sĩ Phật tử. Một số bài thơ của ông rõ ràng sử dụng những tranh luận của Phật giáo chống lại rượu.
1. Có quả báo của việc uống rượu:
Quả báo uống rượu bị đọa lạc
Như người rơi vào trong hố phân
Nên biết đó là nơi dơ bẩn
Vậy có thể nào để đi quanh?
2. Uống rượu ngăn đường người ta kiếm sống:
Uống rượu ngăn đường bạn
kiếm sống
Bài bạc làm gia đình tan hoang
Hãy nhìn người trong tình trạng ấy
Họ rồi sẽ sớm bị nát tan.
3. Sản xuất rượu là bị cấm:
Nấu rượu là điều rất sai trái
Bán thịt việc nghiêm trọng vô vàn
Nếu ai không tin lời ta nói
Thế thì hãy xem kinh Niết-bàn.
Những bài thơ này cung cấp chứng cứ cuối cùng về một quan niệm kiêng rượu được dựa trên giáo lý Phật giáo và được đẩy mạnh như một phẩm hạnh chính của người cư sĩ thuần thành. Còn những bài thơ sau của Vương, thì đã phần nào làm hao tổn những lời của ông về giá trị của việc không uống rượu.
1. Cho dù không phải là nô lệ
Trong kiếp tái sanh gần đây nhất
Thì bạn cũng sẽ phải làm việc
Trong kiếp kế tiếp của đời mình.
Vậy thì tốt nhất hâm ít rượu
Dành thời gian uống với bạn bè.
Phần nào vô lý, khái niệm tái sanh của Phật giáo xuất hiện trong bài thơ này để biện minh cho nguồn vui của việc uống rượu.
2. Khi bạn thật sự nghĩ về nó,
Mọi thứ vô vị và nhạt phèo.
Vậy giữ tâm trần luôn thoải mái.
Thỉnh thoảng nâng ly uống say mèm.
Lại nữa, lời khuyên giữ sự thoải mái trong tâm trần tục có thể không phải điều chúng ta mong đợi từ một nhà thơ Phật tử.
3. Thỉnh thoảng hãy cứ uống rượu say
Khi bình cạn vơi lại đổ đầy
Hãy cứ say sưa trong bất tận
Vì bạn Lưu Linh thăm bạn đây.
Lại nữa, Lưu Linh, một vị thánh hộ mệnh của những kẻ uống rượu đã xuất hiện ở đây. Dường như rằng ngay cả những cư sĩ thuần thành nhất, rượu có những liên hệ văn hóa tích cực mà nó không thể bỏ qua và nó xuất hiện ngay cả ở trong thi ca “Phật giáo”.
Nhưng có phải những Tăng sĩ và cư sĩ Phật giáo trong thực tế tinh tấn trong việc tránh uống rượu như những kinh sách mà chúng ta thấy không? Những bản kê khai chi tiêu của những tu viện Phật giáo và những quy chế của những xã hội thế tục được lưu giữ trong những bản văn Đôn Hoàng cho thấy rằng uống rượu không thật là một sự trụy lạc mà điều đôi khi được các Tăng sĩ và cư sĩ ưa thích. Ngược lại, nó dường như đã là một đặc điểm có ý nghĩa, thậm chí đặc điểm minh định của việc thực hành tôn giáo của những tổ chức cư sĩ Phật tử, và phần của việc tiêu dùng hàng ngày của một số tu viện Phật giáo, ít nhất là ở Đôn Hoàng.
Chú tiểu uống trà - Ảnh minh họa
Cùng thọ thực tại những bữa tiệc chay dường như là đặc điểm có ý nghĩa nhất của thực hành hàng ngày của Phật tử tại gia ở Đôn Hoàng. Những tổ chức Phật tử rõ ràng có gốc rễ của họ ở trong những liên hệ nông dân đó mà nó hình thành để thực hiện cúng tế thức ăn và rượu đến Thổ địa. Theo tập quán xa xưa, những người tham gia trong những bữa tiệc này được yêu cầu đóng góp cho họ. Những thành viên của cả hai loại xã hội, Phật giáo và nông nghiệp, đều trả thuế, có những buổi hội họp chính của họ vào mùa xuân và mùa thu, ăn tiệc cùng nhau, và cùng uống rượu. Chứng cứ từ những bản chữ viết trên bia, những tài liệu Đôn Hoàng và tiểu sử của những vị Tăng cho thấy rằng những quan hệ thế tục này là đặc điểm của đời sống tôn giáo phổ biến từ thế kỷ V đến đời nhà Tống. Mỗi thành viên bị bắt buộc tham gia và cung cấp số lượng bột, dầu và rượu cụ thể. Không tham gia có nghĩa rằng người đó sẽ bị phạt, thường là một số rượu. Những tổ chức này thường bao gồm những thành viên của Tăng-già, họ hình như cùng chịu chung những quy chế.
Một số những bản kê khai tiêu dùng từ bốn tu viện Phật giáo ở Đôn Hoàng đã được lưu giữ và nó có thể khôi phục việc tiêu thụ rượu hàng tháng ít nhất dành cho một trong số chúng. Số lượng ngân sách hàng năm dành cho rượu có thể lên đến chín phần trăm tổng số. Những tu viện tại Đôn Hoàng cả mua rượu và tự nấu nó. Những bản kê khai chi tiêu của tu viện cũng ghi lại những dịp đặc biệt phải mua rượu, thường là để đón tiếp những vị Tăng cao niên ở nơi khác đến, hay để tiếp đãi quan lại của triều đình. Rượu được dùng vào những ngày lễ hội, chẳng hạn như ngày Phật đản và lễ Vu lan. Nó cũng được sử dụng trong những nghi lễ tôn giáo và được biếu cho chư Tăng trong việc trao đổi cho sức lao động của họ (thân thể hoặc tinh thần). Những tài liệu lịch sử thú vị này cho thấy rằng đối với những Tăng sĩ, ít nhất ở trong một vài tu viện ở Đôn Hoàng, rượu vừa là nhu cầu cần thiết hàng ngày, và vừa thích hợp cho những dịp đặc biệt.
Kết luận
Như vậy trong nhiều cách, dường như ông Rượu đã đúng khi tuyên bố rằng ông không thể thiếu đối với văn hóa Trung Quốc. Ít nhất ở Đôn Hoàng, dường như rằng chư Tăng và các Phật tử vẫn cần rượu bất kể họ có thể phê phán nó thế nào. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ VIII, trà đã đưa ra một sự thay thế thú vị mà nó rõ ràng có thể được đồng nhất với Phật giáo. Sự đẩy mạnh trà thực sự được kết hợp với những tranh luận chống lại rượu mà nó nhờ đến một khối lượng tài liệu Phật giáo lớn và đa dạng. Những bản văn Phật giáo được hình thành ở bản xứ mà chúng được cho là lời của Đức Phật thường nghiêm khắc hơn những tài liệu được chuyển dịch từ những tài liệu Ấn Độ.
Sự ảnh hưởng của những dấu vết Phật giáo về sự tiết độ trong ăn uống dựa trên những thói quen của Trung Quốc là một giải thích khả dĩ cho sự thay đổi văn hóa, nhưng có lẽ sự thay đổi ở trong những thói quen uống của đời Đường phản ảnh một sự thay đổi lớn hơn ở trong hệ tư tưởng thời đại. Tôi hoài nghi rằng cuộc nổi loạn An Lộc Sơn (安禄山) vào năm 755 có thể đóng một phần trong việc suy thoái của thi nhân say rượu như là mô hình vai trò văn hóa và kết quả xuất hiện hình ảnh tích cực của vị Thiền sư uống trà, thoát tục. Rõ ràng, các văn nhân cuối đời Đường dường như ít có dáng vẻ thảnh thơi hơn những văn nhân trước đó. Sự đổ máu và hỗn loạn khủng khiếp gây ra bởi cuộc bạo loạn và đời sống phần nào tàn bạo của thế kỷ IV có thể làm thức tỉnh Trung Quốc đời Đường thậm chí có hiệu quả hơn bất kỳ phong trào Phật giáo nào về sự tiết độ ăn uống.
James A. Benn - Nguyên Hiệp dịch
______________
* Nguồn: James A. Benn, “Buddhism, Alcohol, and Tea in Medieval China,” in Roel Sterckx, ed., Of Tripod and Palate: Food, Politics, and Religion in Traditional China (New York: Palgrave Macmillan, 2005): 213-236.