Di sản giáo pháp của Ajaan Dune Atulo: Kỳ lạ

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
0:00 / 0:00
0:00
NSGN - Sau lễ khai trương Bảo tàng Phra Ajaan Mun, Luang Pu đã đi xa hơn để thăm Trưởng lão Ajaan Funn tại động Khaam Cave. Vào thời đó, các xe lớn không thể đi xa hơn chân đồi nơi có hang động, nghĩa là Luang Pu phải leo một quãng đường dài lên đồi.

Việc này khiến ngài thấy vô cùng mệt mỏi, phải dừng lại nhiều lần để lấy lại hơi thở. Tôi cảm thấy vô cùng đau lòng vì một phần đã đưa ngài vào gian nan như thế. Cuối cùng, khi chúng tôi đến hội trường trên đỉnh đồi và Trưởng lão Ajaan Funn đã đảnh lễ ngài, thì Trưởng lão Ajaan Thate cũng tình cờ tới.

Nhìn thấy ba vị đại trưởng lão này tình cờ gặp nhau và nghe họ trò chuyện thân mật trong bầu không khí an bình và tươi cười như vậy, cảm giác đau đớn trong tôi hoàn toàn biến mất và thay vào đó là cảm giác hỷ lạc. Trưởng lão Ajaan Funn bày tỏ sự ngưỡng mộ với Luang Pu: “Sức khỏe của ngài rất khỏe. Ngay cả ở tuổi của ngài, ngài vẫn có thể leo lên tận ngọn đồi”.

Luang Pu trả lời: “Tôi không thực sự mạnh đến thế. Tôi đã xem xét vấn đề và thấy rằng tôi không có nghiệp xấu nào đối với cơ thể. Khi tôi không thể sử dụng thân này nữa, tôi sẽ chỉ bỏ nó đi, thế thôi”.

Kỳ lạ hơn nữa

Tôi chắc rằng bạn có thể hình dung đám đông cư sĩ xung quanh đã vui mừng thế nào khi có mặt trong cuộc hội ngộ tình cờ này của 3 nhà sư vĩ đại. Loại cơ hội này không dễ tìm. Do vậy, 2 nhiếp ảnh gia đến từ Surin bắt đầu chụp càng nhiều ảnh càng tốt. Khi chúng tôi trở lại xe buýt để về nhà, các nhiếp ảnh gia thấy mọi người đều khao khát những bức ảnh nên họ nói sẽ in các tấm ảnh thành ấn bản khổ 12 inches và sẽ bán, tiền thu được sẽ giúp đỡ tu viện Jawm Phra Forest Monastery. Tôi tự nghĩ rằng chuyện không đẹp chút nào khi thấy nêu giá trên các hình ảnh của một nhà sư với mục đích bán ra, nhưng hầu hết mọi người trên xe buýt đều đặt mua.

Khi các nhiếp ảnh gia tráng phim ra, họ thấy rằng, trong hơn 20 bức ảnh mà họ đã tận lực để chụp, tất cả đều hoàn toàn trống trơn, giống như bầu trời không một gợn mây. Thế là chấm dứt hy vọng của mọi người về những bức ảnh, và hóa ra, đó là cuộc gặp cuối cùng giữa 3 nhà sư vĩ đại đó.

Sự thật như ngài đã thấy

Khi người ta hỏi Luang Pu rằng ngài đã từng đọc bất kỳ câu chuyện nào trong rất nhiều câu chuyện về cuộc đời của Ajaan Mun, ngài sẽ trả lời: “Một số ít.” Câu hỏi tiếp theo sẽ là “Ngài nghĩ gì về tất cả những sức mạnh tâm linh và các sự kiện phép lạ mà truyện kể lại?” Luang Pu sẽ trả lời: “Hồi còn sống với Ajaan Mun, tôi chưa bao giờ nghe ngài nhắc đến bất cứ thứ gì như thế”.

Thông thường, khi Luang Pu nói về Ajaan Mun, ngài chỉ nói về pháp tu khổ hạnh của ngài kia, nói rằng: “Trong các thế hệ nhà sư về sau, tôi chưa bao giờ thấy một người nào tuân thủ các thực hành này một cách nghiêm ngặt như Ajaan Mun. Ngài chỉ mặc y bằng vải vụn do chính ngài khâu và nhuộm, Ngài không bao giờ mặc y do người khác làm sẵn. Suốt đời Ngài ở trong rừng, chỉ ăn vật thực do khất thực nhận được, và chỉ bước ra khỏi cửa để khất thực. Ngay cả khi bệnh nặng, ngài cũng ngồi dậy và ôm bát trong lòng để người khác cúng dường vào. Ngài không bao giờ nhận các khoản cúng dường đặc biệt đến từ việc an cư và cũng không nhận Kathina (lễ cúng y cuối hạ). Ngài không bao giờ dính tới chuyện xây chùa, và không bao giờ cố gắng thuyết phục người khác làm như vậy”.

Trả lời câu hỏi bằng câu hỏi

Bởi vì tôi đã quen thuộc với cách nói chuyện của Luang Pu trong thời gian dài, khi tôi hỏi ngài một câu hỏi, ngài thường trả lời bằng cách đưa trở lại một câu hỏi - cách của ngài khiến tôi phải tự nghĩ ra câu trả lời. Ví dụ, khi tôi hỏi: “Tâm của các vị A-la-hán trong sáng và chói sáng. Họ có thể đoán chính xác kết quả số ra trong kỳ quay xổ số sắp tới không?” thì ngài trả lời: “Các vị A-la-hán có muốn biết những chuyện như vậy không?”.

Khi tôi hỏi: “Các vị A-la-hán có mơ trong giấc ngủ như người thường không?” ngài đã trả lời, “Không phải các giấc mơ là chuyện của hành uẩn sao?”.

Khi tôi hỏi: “Có bao giờ những người đời thường vẫn còn dày đặc phiền não mà vẫn có thể dạy người khác trở thành A-la-hán không?” ngài đã trả lời, “Không phải đã có nhiều bác sĩ, mặc dù bản thân họ bị bệnh, nhưng vẫn có thể chữa khỏi bệnh cho người khác phải không?”.

Thói quen của Luang Pu

Về thân: Thể lực ngài khỏe mạnh, nhanh nhẹn, đường nét cân đối, sạch sẽ, ít bệnh. Ngài thích tắm bằng nước ấm mỗi ngày một lần.

Về khẩu: Ngài có giọng nói trầm nhưng nói dịu dàng. Ngài ít nói, chỉ nói sự thật, nói trực tiếp, không có mưu đồ gì trong lời nói. Nói cách khác, ngài không bao giờ nói bóng gió, không bao giờ nịnh bợ vuốt ve, không bao giờ nói mỉa mai, không bao giờ nói chuyện nhảm, không bao giờ nài nỉ xin gì, không bao giờ xin lỗi ai, không bao giờ kể về những giấc mơ của ngài. Ngài không bao giờ kể chuyện tiền thân Đức Phật hay những câu chuyện dị thường huyền bí.

Về tâm: Có một sự thật đối với ngài - một khi ngài đã quyết tâm làm điều gì đó, ngài sẽ làm việc đó cho đến khi thành công. Ngài luôn là người nhân hậu và từ bi, trầm lặng, điềm tĩnh và chịu đựng. Ngài không bao giờ nổi giận hay tỏ ra bực dọc hay thiếu kiên nhẫn. Ngài không bao giờ buồn phiền về những thứ đã mất và không bao giờ lười biếng lơ là. Hoàn toàn chánh niệm, tỉnh giác, lúc nào ngài cũng vui vẻ. Ngài dường như không bao giờ đau khổ, và ngài không bị lay chuyển trước các sự kiện. Không có trạng thái tâm bất thiện nào hiển lộ nơi ngài.

Ngài luôn luôn dạy chúng tôi: “Hãy cố gắng hiểu rõ các sự kiện như là các sự kiện: rằng chúng sinh khởi, thay đổi rồi tan biến. Đừng đau khổ hay buồn phiền vì chúng”.

Đau nặng nhưng không nặng nề với đau

Luang Pu bị bệnh nặng tại Bệnh viện Chulalongkorn. Vào đêm của ngày thứ 17 nằm viện, ngài rất mệt mỏi, tới mức các bác sĩ phải cho ngài một ống thở oxy. Đêm khuya hôm đó, quá nửa đêm, một vị sư nổi tiếng cùng với đông đảo tín đồ đến đảnh lễ. Thấy đây là một dịp đặc biệt, tôi để họ vào phòng của Luang Pu. Luang Pu nằm nghiêng bên phải với đôi mắt nhắm nghiền trong suốt chuyến viếng thăm. Khi nhà sư và các đệ tử đã lạy ngài, nhà sư cúi xuống và nói thẳng vào tai ngài: “Luang Pu, ngài còn cảm thấy đau không?”.

Luang Pu trả lời, “Cảm thọ và thân thể vẫn tồn tại theo bản chất của chúng, nhưng tôi không tham dự vào cảm thọ đó chút nào”.

Một đường tắt an toàn

Vào ngày 20 tháng 1 năm 1973, ngay trước khi Luang Pu rời Bệnh viện Chulalongkorn, các học trò của ngài đã quyết định cúng dường Tăng đoàn để hồi hướng công đức cho các thế hệ quá khứ đã xây bệnh viện và họ đã qua đời.

Khi buổi lễ kết thúc, một số bác sĩ và y tá đã đến để tỏ lòng thành kính với Luang Pu và bày tỏ niềm vui mừng vì ngài đã khỏi bệnh. Họ nói một cách thân thiện: “Sức khỏe của ngài vẫn tốt và mạnh mẽ. Sắc mặt ngài sáng, như thể ngài không hề bị bệnh gì cả. Đây có lẽ là thành quả do ngài có sức định cao. Chúng con không có nhiều thời gian rảnh để tập định. Có phương pháp nào đơn giản và nhanh chóng không?”.

Luang Pu đáp: “Bất cứ khi nào quý vị có thời gian, hãy dùng thời gian đó để thực hành. Luyện tâm, khảo sát tâm, là phương pháp nhanh nhất, trực tiếp nhất trong tất cả các phương pháp”.

Mọi thứ đến từ hành động

Trong suốt đời ngài, Luang Pu không bao giờ chấp nhận ý tưởng về chuyện những giờ hên, hay ngày may mắn. Ngay cả khi người ta hỏi đơn giản rằng: “Ngày nào tốt để xuất gia?” hoặc “để cởi y ra đời?” hoặc “Ngày nào may mắn hay ngày xui xẻo?” ngài không bao giờ đồng ý với chuyện đó. Ngài thường nói, “Mọi ngày đều tốt.” Nếu người ta yêu cầu ngài xác định thời điểm tốt lành, ngài sẽ bảo họ tự tìm hiểu, nếu không ngài sẽ nói: “Bất cứ lúc nào thuận tiện sẽ là thời điểm tốt”.

Ngài kết luận bằng cách nói, “Mọi thứ đều xuất phát từ hành vi của chúng ta. Thời điểm tốt, thời điểm xấu, thời điểm may mắn, thời điểm không may mắn, công đức, tội lỗi: Tất cả những điều này đều đến từ hành vi của con người”.

Không trình diễn

Luang Pu chưa bao giờ làm bất cứ điều gì để phô trương hay gây sự chú ý về mình. Ví dụ, nếu người ta muốn chụp ảnh ngài, thì thời điểm của họ phải phù hợp. Như trường hợp, nếu ngài đã mặc đầy đủ y phục nhà sư để nghe thuyết giới luật Patimokkha hoặc để làm lễ xuất gia cho một người, hay để tham dự một nghi lễ nào đó, thì nếu bạn xin chụp ảnh ngài vào một thời điểm như thế, điều đó sẽ xảy ra dễ dàng. Nhưng nếu ngài đang ngồi không chính thức và bạn xin ngài đứng dậy, mặc áo cà-sa để tạo dáng chụp ảnh, bạn sẽ khó thuyết phục ngài tuân theo.

Một lần nọ, một phụ nữ từ Bangkok mang đến cho Luang Pu một cái mền mịn để đắp trong mùa lạnh. Mấy tháng sau, giữa mùa nóng nực, tình cờ cô lại đến đảnh lễ. Cô xin ngài lấy cái mền ra và tạo dáng để cô chụp ảnh vì cô đã quên chụp ảnh khi cúng dường mền. Luang Pu từ chối làm như vậy, nói nhẹ nhàng, “Không thật sự cần phải làm thế.” Ngay cả khi cô hỏi ngài lần thứ hai, lần thứ ba, ngài vẫn nói: “Không cần thiết đâu”.

Khi cô rời đi, tôi cảm thấy không thoải mái, nên tôi đến gặp Luang Pu và hỏi ngài, “Ngài có thấy cô kia thất vọng đến mức nào không?”.

Luang Pu mỉm cười và nói: “Tôi biết. Và lý do cô thất vọng là vì cô có một tấm lòng bất như ý”.

Kết thúc của sự tái sinh

Có lần một thiền sư thâm niên đến thảo luận nhiều chủ đề cao thâm về Pháp với Luang Pu và kết thúc bằng một câu hỏi: “Một số thiền sư cao cấp cư xử tốt và gây được sự kính trọng lớn lao. Ngay cả các nhà sư khác cũng đồng ý rằng họ đã vững vàng trong lời dạy của Đức Phật. Nhưng sau đó có chuyện gì đó xảy ra. Hoặc là họ cởi y về đời, hoặc hành vi của họ bắt đầu lạc hướng, làm sai cả Chánh pháp và Giới luật. Vậy người ta phải đạt đến trình độ nào của Pháp để cắt đứt luân hồi một cách chắc chắn, để không còn tái sinh nữa?”.

Luang Pu nói: “Tuân thủ nghiêm ngặt theo Luật tạng và tuân theo các pháp tu khổ hạnh là một hình thức ứng xử đáng ngưỡng mộ và cực kỳ truyền cảm hứng. Nhưng nếu bạn chưa phát triển tâm đến mức độ cao của tâm và có trí tuệ sáng suốt cao, nó luôn có thể thoái lui, vì nó chưa đạt đến siêu việt. Thực ra, các vị A-la-hán không cần biết nhiều, họ chỉ cần phát triển tâm để hiểu rõ năm uẩn và thâm nhập vào luật Duyên khởi. Đó là khi họ có thể ngừng tạo tác, ngừng tìm kiếm, dừng mọi chuyển động của tâm. Ngay nơi đó là nơi mọi thứ kết thúc. Tất cả những gì còn lại là sự thuần khiết, trong sạch, sáng chói - cái rỗng không vĩ đại, cái rỗng không vô cùng”.

Ajaan Dune Atulo (1888-1983)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983)

Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4-10-1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi, ngài xuất gia ở tỉnh lỵ. Sáu năm sau, thất vọng với nếp sống của một Tăng sĩ thất học, ngài rời đi để học ở Ubon Ratchathani, nơi ngài kết bạn với Ajaan Singh Khantiyagamo và tái xuất gia vào tông phái Dharmayut. Không lâu sau đó, ngài và Ajaan Singh gặp Ajaan Mun, người vừa trở về vùng Đông Bắc Thái Lan sau nhiều năm lang thang. Ấn tượng với những lời dạy và pháp thực hành của Ajaan Mun, cả hai tu sĩ đều từ bỏ việc học và bắt đầu cuộc sống thiền định lang thang dưới sự hướng dẫn của ngài Ajaan Mun. Vì vậy họ là hai đệ tử đầu tiên của Ajaan Mun. Sau khi lang thang 19 năm qua rừng núi Thái Lan và Campuchia, ngài đảm nhận chức vụ trụ trì của Wat Burapha, ở giữa thị trấn từ năm 1934. Ngài ở đó cho đến khi qua đời vào năm 1983.

______________

Phra Bodhinandamuni ghi lại

Thanissaro Bhikkhu dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh

(NSGN 347)

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 389/GP-BTTTT ngày 02-8-2022
Tổng Biên tập: Thượng tọa Thích Tâm Hải
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2025 - Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.