Nhân duyên kỳ ngộ

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1300 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1300 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
0:00 / 0:00
0:00
GNO - Hòa thượng Bodhi, tiến sĩ Xã hội học, hành giả, đồng thời là học giả của nhiều công trình Phật học nổi tiếng thế giới, một trong những đại biểu đặc biệt đại diện cho Phật giáo Hoa Kỳ tham dự Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc 2025 tại TP.HCM và là một trong những diễn giả chính của Đại lễ.

Việc chàng thanh niên người Mỹ xuống tóc xuất gia để trở thành Tỳ-kheo Bodhi là từ nhân duyên với một người Việt Nam, cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu (1918-2012). Dịp này, Giác Ngộ xin giới thiệu lại một tùy bút của Hòa thượng, về nhân duyên đặc biệt này.

***

Đầu tháng 8 năm 1965, sau khi hoàn tất khóa học hè, tôi bắt đầu vân du bằng xe hơi từ New York tới California. Lúc ấy tôi 20 tuổi và tháng 9 sẽ vào năm học cuối Đại học Brooklyn. Tôi muốn đi thăm người bạn đang nghỉ hè tại San Francisco. Tôi tìm cách quá giang cùng mấy anh bạn sinh viên, và chúng tôi khởi hành từ quán ăn gần Đại học Brooklyn trong một buổi sáng thứ Hai đẹp trời. Sau một ngày ròng rã đi đường, chúng tôi dừng lại tại Madison, Wisconsin, để ở lại qua đêm trong nhà của mấy người đi cùng.

Đấy là lần đầu tiên tôi đi về hướng Tây của dãy núi Pocono và trải nghiệm này đã cho tôi nhiều điều hứng thú. Sau một đêm ngon giấc, sáng hôm ấy; tôi quyết định đi tản bộ. Một ngày trời nắng thật đẹp. Tôi bước qua những con đường vắng vẻ tới một hồ nước rộng lớn thơ mộng bên cạnh Đại học Wisconsin. Rẽ vào khu bên trong, tôi nhận ra mình đang ở trong khuôn viên đại học. Khi tôi theo lối đi bộ vào trung tâm của đại học, một điều ngạc nhiên đã xảy đến. Ở bên phải tầm nhìn của tôi, cánh cửa của tòa nhà lớn bằng đá bỗng nhiên mở ra và bước ra là một người đàn ông trung niên nét mặt Á Đông khoác chiếc y vàng cam. Vị ấy tức thì được một người Mỹ cao to bước theo và bắt kịp, và hai người đi bên nhau trò chuyện.

Tôi hết sức ngạc nhiên, sững sờ khi thấy vẻ bình thản con người an tịnh và bình thản này, đã toát lên một vẻ đẹp thanh thoát, hỷ lạc và trang nghiêm mà trước đó tôi chưa bao giờ thấy ở bất kỳ người phương Tây nào. Người đàn ông bên cạnh vị ấy, có lẽ là một giáo sư, biểu lộ vẻ tôn trọng và cung kính vị ấy. Điều này khiến tôi biết vị ấy không phải là một nhà sư bình thường mà là người có thanh thế. Vừa nhìn vị ấy đi qua sân trường, lòng tôi dâng tràn niềm vui sướng và hạnh phúc.

Ngay khi đó, tôi nhận ra rằng tôi đang hướng nhìn một nhà sư Phật giáo. Tôi chưa bao giờ thấy một nhà sư Phật giáo nào trước đó, và ở Mỹ lúc bấy giờ con số tu sĩ Phật giáo có lẽ được tính trên đầu ngón tay của một bàn tay. Tôi chỉ mới bắt đầu đọc sách về Phật giáo trước đó vài tháng, và tôi biết các nhà sư Phật giáo khoác y vàng qua cuốn Siddhartha của Hermann Hesse. Như vậy, tôi có thể nhận biết người mà tôi đang nhìn là một vị Tỳ-kheo. Tôi hết sức ngạc nhiên, sững sờ khi thấy vẻ bình thản con người an tịnh và bình thản này, đã toát lên một vẻ đẹp thanh thoát, hỷ lạc và trang nghiêm mà trước đó tôi chưa bao giờ thấy ở bất kỳ người phương Tây nào.

Người đàn ông bên cạnh vị ấy, có lẽ là một giáo sư, biểu lộ vẻ tôn trọng và cung kính vị ấy. Điều này khiến tôi biết vị ấy không phải là một nhà sư bình thường mà là người có thanh thế. Vừa nhìn vị ấy đi qua sân trường, lòng tôi dâng tràn niềm vui sướng và hạnh phúc. Tôi nghĩ cảm giác của tôi lúc ấy có thể giống như cảm giác của chàng thanh niên Bà-la-môn xứ Ấn thời xưa, lúc mà chàng ngước lên nhìn và, lần đầu tiên, thấy bước xuống trên con đường gần đó là một nhà sư, đệ tử của nhà khổ hạnh Gotama mà mọi người gọi là “Bậc Giác ngộ”.

Tôi đứng cách xa con đường hai vị ấy đang đi chừng hơn 60 mét. Tôi muốn đến gần nhà sư và hỏi ngài là ai, và đang làm gì, và nhiều câu hỏi khác nữa. Nhưng tôi quá nhút nhát và e rằng tôi sẽ tỏ ra ngốc nghếch. Vì vậy, tôi chỉ đứng đó dõi theo ngài, trố mắt nhìn ngài chằm chằm, quan sát từng cử chỉ của ngài trong suốt bốn, năm phút khi hai người đi qua hết chặng đường. Tôi đã bị hút hồn mất; tôi có cảm giác bị lạc vào một thế giới hiện hữu khác. Một cái gì đó trong lòng tôi đã làm khơi dậy niềm khao khát sâu sắc.

Tôi đã bị hút hồn mất; tôi có cảm giác bị lạc vào một thế giới hiện hữu khác. Một cái gì đó trong lòng tôi đã làm khơi dậy niềm khao khát sâu sắc. Tôi nghĩ nếu ai đó đến từ đằng sau và đâm tôi bằng cây kim, tôi sẽ không có cảm giác gì. Tôi quá bị cuốn hút vào phong thái của nhà sư này.

Tôi nghĩ nếu ai đó đến từ đằng sau và đâm tôi bằng cây kim, tôi sẽ không có cảm giác gì. Tôi quá bị cuốn hút vào phong thái của nhà sư này. Rồi vị ấy và ông giáo sư đi đến một tòa nhà khác; ông giáo sư mở cửa và hai vị biến mất vào bên trong. Tôi vẫn cảm thấy vui sướng với cơ duyên gặp gỡ nhà sư Phật giáo, nhưng niềm vui sướng ấy lập tức bị lu mờ bởi một nỗi buồn. Lòng tôi chìm vào suy tư rằng cuộc phiêu lưu này đã chấm dứt và tôi đã mất đi cơ hội tiếp thu nguồn sống trí tuệ của phương Đông. Lúc ấy, tôi nghĩ nhà sư phi thường ấy sẽ đi theo con đường của mình, và tôi phải đi con đường của tôi, và hai con đường của chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại nhau.

Sự vận hành của duyên nghiệp quả thật là kỳ lạ và không thể biết được! Hơn một năm sau, vào tháng 9 năm 1966, tôi đăng ký học Trường hậu Đại học Claremont ở California (cách 25 dặm về phía Đông Los Angeles), để bắt đầu một chương trình tiến sĩ triết học. Vào kỳ học mùa xuân ấy, có một tu sĩ Phật giáo từ Việt Nam đến học cùng đại học và dọn đến ở ngay tầng phía dưới tôi trong ký túc xá hậu đại học. Vị này không được “an tịnh và bình thản” như nhà sư ở Wisconsin, mà là người “dễ nuôi”, chơi đàn banjo, hát những bài hát dân ca Việt Nam, hút thuốc lá Pháp, nấu những món thịt gà và thịt heo sành điệu (cho dù xuất gia theo Phật giáo Đại thừa, thầy phải ăn chay), và học khoa học chính trị - một môn học mà thầy bạo miệng nói tới nỗi có thể làm cho Henry Kissinger đỏ mặt. Vì những lý do này, mặc dù thích Phật giáo, tôi lúc đầu vẫn giữ khoảng cách với vị thầy này. Tuy nhiên, khi tôi hiểu biết thầy, tôi bắt đầu thích và cuối cùng chấp nhận thầy là người thầy Phật giáo đầu tiên của tôi. Đến mùa hè năm 1967, chúng tôi về sống cùng căn hộ trong ký túc xá hậu đại học và sau đó dời tới một căn nhà nhỏ bên ngoài đại học.

Một hôm (tôi nghĩ là vào tháng 11 năm 1967), thầy cho tôi biết rằng có một vị danh tăng từ Việt Nam tên là Thích Minh Châu, đang ở Mỹ và sắp đến thăm Los Angeles. Thầy nói Thượng tọa Minh Châu là Viện trưởng Đại học Vạn Hạnh và là một học giả Phật giáo hoàn hảo. Ngài lấy tiến sĩ từ Đại học Phật Giáo Nalanda ở Ấn Độ và đã viết một nghiên cứu đối chiếu quan trọng về Trung bộ chữ Pāli và Trung A-hàm chữ Hán. Thầy bạn của tôi dự tính tới Los Angeles để diện kiến Thượng tọa Minh Châu và thầy mời tôi đi cùng.

Thế là, một buổi sáng cuối thu đẹp trời, chúng tôi đến nhà của một gia đình Việt Nam mà vị danh tăng ấy đang ở lại. Khi Thượng tọa Minh Châu đi ra từ phòng khách, tôi thấy một người đàn ông trung niên đắp chiếc y vàng cam, an tịnh và bình thản, cung cách cao quý, toát lên vẻ thuần thiện và trí tuệ. Ngài quả thật trông rất giống nhà sư mà tôi đã thấy hai năm trước ngang qua khuôn viên Đại học Wisconsin. Tuy vậy, tôi không thể chắc chắn, vì có thể có hai nhà sư trung niên Á Đông giống nhau. Tôi nhìn thấy nhà sư ở Wisconsin cách xa khoảng sáu, bảy mươi mét, và như thế không thể phân biệt được chính xác nét mặt.

Khi Thượng tọa Minh Châu đi ra từ phòng khách, tôi thấy một người đàn ông trung niên đắp chiếc y vàng cam, an tịnh và bình thản, cung cách cao quý, toát lên vẻ thuần thiện và trí tuệ. Ngài quả thật trông rất giống nhà sư mà tôi đã thấy hai năm trước ngang qua khuôn viên Đại học Wisconsin.

Vì vậy, tôi quyết định tìm hiểu. Tôi phải kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi ông thầy bạn tôi, Thượng tọa Minh Châu và gia đình chủ nhà nói chuyện bằng tiếng Việt xong. Khi có được cơ hội, tôi hỏi ngài, “Đây có phải là lần đầu tiên Thượng tọa tới Mỹ không, thưa ngài?”. Ngài nói, “Không, tôi đã đến đây cách đây mấy năm”. Đó là điều tôi mong đợi. Rồi tôi hỏi: “Thưa có phải Thượng tọa đã đến Đại học Wisconsin vào đầu tháng 8 năm 1965?”. Và ngài nói, “Đúng là tôi ở đó. Tôi khi đó đi thăm một người bạn, giáo sư Richard Robinson. Vị ấy bắt đầu mở chương trình Phật học tại đó”. Rồi tôi kể cho ngài nghe về ngày ấy, khi tôi dõi nhìn ngài đi qua khuôn viên đại học. Ngài mỉm cười hiền từ và nói, “Như vậy đây không phải là lần đầu tiên chúng ta gặp nhau”.

Mấy năm sau khi Thượng tọa Thích Minh Châu đến thăm Mỹ (có lẽ năm 1969), ngài ở lại với chúng tôi mấy ngày tại nhà chúng tôi ở Claremont. Thậm chí sau đó, khi tôi dự định đi châu Á một chuyến để thọ giới Tỷ-kheo và học Phật pháp, thì ngài đã cho tôi lời khuyên hữu ích và chuẩn bị cho tôi một lá thư mở rất hay giới thiệu tôi tới các chức sắc Phật giáo châu Á. Tôi đã giữ lá thư ấy và mang nó theo hành trang của mình đến Kandy. Chính ngài đã đề nghị rằng, khi đến Sri Lanka, tôi phải học đạo với Thượng tọa Nyanaponika. Thế nhưng tôi đã không hoàn thành mục tiêu ấy trong những năm đầu ở xứ đảo quốc này. Suốt những năm đầu làm Tăng sĩ ở Sri Lanka, tôi thỉnh thoảng viết thư cho Thượng tọa Thích Minh Châu để xin lời khuyên và ngài luôn luôn trả lời tôi nhanh chóng và chu đáo.

Hòa thượng Bodhi tại chùa Long Hưng, Hà Nội, tháng 4-2025 - Ảnh: Huệ Như
Hòa thượng Bodhi tại chùa Long Hưng, Hà Nội, tháng 4-2025 - Ảnh: Huệ Như

Trải qua mấy thập niên, Hòa thượng Thích Minh Châu đã dịch ra Việt ngữ bốn bộ Nikāya của Pāli tạng. Sự việc này tôi chỉ mới biết gần đây thôi. Thì ra, đây là điều phi thường và kỳ lạ, làm nảy sinh những câu hỏi thú vị. Ngày hôm ấy vào đầu tháng 8 năm 1965, một chàng trai sinh viên Mỹ 20 tuổi, mà một ngày nào đó sẽ là dịch giả của Trung bộ kinh, Tương ưng bộ kinh, Tăng chi bộ kinh, tình cờ gặp một nhà sư Việt Nam lớn hơn mình hơn 30 tuổi, người cũng dịch bốn bộ Nikāya ấy ra Việt ngữ. Chàng sinh viên Mỹ lúc bấy giờ chẳng dính líu gì đến nghiên cứu Phật học, mà chỉ mới bắt đầu đọc sách về Phật giáo. Chàng không có ý định gặp nhà sư ấy, và trong thực tế hai người đã không trực tiếp gặp nhau. Được nhìn từ quan điểm duyên khởi khách quan, cuộc gặp gỡ tình cờ ấy có những đặc tính hoàn toàn giống nhau. Chàng sinh viên Mỹ chỉ tình cờ đổi hướng trong khi tản bộ trong thị trấn mà chàng tình cờ đến, nhìn thấy nhà sư từ xa, và rồi bỏ đi mà thậm chí không biết ngài là ai. Nhà sư cũng chẳng thấy anh chàng sinh viên người Mỹ ấy.

Nhưng điều gì đã khiến tôi quyết định đi bộ sáng hôm đó, rồi rẽ ra khỏi con đường ven hồ để tới đại học ngay tại chỗ đó và ngay tại thời điểm đó? Đó thật sự có phải là chuyện hoàn toàn tình cờ, một loạt quyết định chỉ là ngẫu nhiên chăng? Và nếu chúng ta có thể nêu lên những câu hỏi này, thì chúng ta hãy hỏi: Cái mối nhân duyên rộng lớn đã kết nối hành trình của tôi đến California và hành trình của ngài đến Wisconsin ngay tại thời điểm ấy? Nếu tôi nhớ không sai, chúng tôi đã định trước là rời Brooklyn sớm hơn hai ngày, nhưng chướng ngại phút cuối đã buộc chúng tôi trì hoãn giờ khởi hành cho đến sáng thứ Hai. Nếu chúng tôi khởi hành như dự định ban đầu thì cuộc gặp gỡ của tôi với ngài có lẽ đã không xảy ra.

Mặc dù tôi biết Hòa thượng Thích Minh Châu đã viết một bản đối chiếu uyên thâm về các kinh điển chữ Pāli và chữ Hán, nhưng mấy năm sau, khi tôi đảm nhận công tác dịch Kinh tạng Pāli, tôi vẫn không biết ngài đã dịch các bộ Nikāya ra tiếng Việt. Thậm chí, những công trình phiên dịch sang hai ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng tôi hầu như giống hệt nhau. Điều này phải chăng cũng là nhân duyên được báo trước trong cuộc gặp gỡ tại Đại học Wisconsin, nơi mà tôi chưa bao giờ trở lại sau cuộc gặp gỡ ấy và có lẽ tôi không bao giờ trở lại trong kiếp sống này?

Khi tôi rời khỏi đại học và tin chắc rằng chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa, tôi chẳng ý thức để tạo nhân duyên cho cuộc gặp gỡ khác với ngài. Tuy nhiên tôi đã tạo ra nguyên một loạt quyết định mà không có một phác họa cố ý nào. Những quyết định ấy đã đưa chúng tôi gặp nhau một lần nữa, mà lần này và lần này trong hoàn cảnh chúng tôi gặp nhau như là những người cùng đi theo Chánh pháp. Tôi chọn trường hậu đại học, nơi đã đưa tôi tiếp xúc với một tu sĩ Việt Nam khác và trở thành bạn – song tôi chọn trường mà chẳng biết vị thầy này sẽ học trường đó (thật ra không biết gì về các vị tu sĩ Phật giáo Việt Nam). Và thông qua quan hệ bạn bè, tôi được đến gặp nhà sư mà tôi đã nhìn thấy hai năm trước đó, cử chỉ của người đã khắc quá sâu trong lòng tôi - tuy nhiên tôi đâu có biết hai nhà sư này có quen biết nhau. Mặc dù tôi biết Hòa thượng Thích Minh Châu đã viết một bản đối chiếu uyên thâm về các kinh điển chữ Pāli và chữ Hán, nhưng mấy năm sau, khi tôi đảm nhận công tác dịch Kinh tạng Pāli, tôi vẫn không biết ngài đã dịch các bộ Nikāya ra tiếng Việt. Thậm chí, những công trình phiên dịch sang hai ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng tôi hầu như giống hệt nhau. Điều này phải chăng cũng là nhân duyên được báo trước trong cuộc gặp gỡ tại Đại học Wisconsin, nơi mà tôi chưa bao giờ trở lại sau cuộc gặp gỡ ấy và có lẽ tôi không bao giờ trở lại trong kiếp sống này?

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.