Chư tôn đức niêm hương tưởng niệm |
Chư tôn giáo phẩm: Hòa thượng Thích Như Tín, Thành viên Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM; Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Trị sự; chư tôn đức Thường trực Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, quận 3, các quận huyện TP.HCM và môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm niêm hương tưởng niệm lần thứ 46 Hòa thượng Thích Minh Trực.
Hòa thượng Thích Minh Trực, thế danh là Võ Văn Thạnh, sinh năm 1895, tại xã Phước Vân, tổng Lộc Thành Thượng, tỉnh Chợ Lớn (cũ), nay là xã Phước Vân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
Ngài xuất thân trong một gia đình Phật tử thuần thành, trung nông. Thuở nhỏ, ngài được thân mẫu dẫn đến quy y Tam bảo ở chùa Mỹ Phước, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Sau đó, ngài tiếp tục lên Sài Gòn học Nho học và Tây học cho đến khi đỗ đạt. Ngài thường xuyên gần gũi các bậc cao Tăng thạc đức, các giới học giả trí thức, để tham cứu kinh sách tam giáo, và quyết định chọn cho mình một con đường để đi, đó là Phật giáo.
Trang nghiêm khóa lễ cúng ngọ tại chánh điện |
Năm 29 tuổi (1924), ngài xuất gia tại chùa Tam tông (Sài Gòn) rồi cùng các cụ Minh Chánh, Minh Giáo, Minh Truyền, Minh Đàm, Minh Thiện sáng lập Tam Tông Miếu - Minh Lý Thánh Hội tại quận Ba, Sài Gòn. Trong thời gian tu học ở đây, ngài thiết lập thiền thất chuyên nghiên cứu Phật học và cùng với các vị tôn túc danh Tăng: Tổ Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh, Đạt Thanh; Hòa thượng Từ Quang, Thành Đạo, Thiện Hòa, Thiện Hoa... học hỏi, trao đổi giáo lý Phật-đà. Ngoài ra, ngài tham gia các phong trào chấn hưng Phật giáo: Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học, Giáo hội Lục hòa Tăng, Giáo hội Tăng già Việt Nam, Hội Phật học Nam Việt... để mở rộng sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh sau này.
Môn đồ pháp quyến trong khóa lễ cúng ngọ |
Năm 1948, sau hơn 20 năm tu học tinh tấn, thân cận các bậc thiện tri thức, ngài khai sơn tổ đình Phật Bửu thiền tịnh đạo tràng, xiển dương pháp môn thiền - tịnh song tu được lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay.
Vốn có căn bản về Nho học lẫn Tây học, lại thêm sự thấu đạt nghĩa lý sâu xa của Phật pháp, nên từ năm 1948 đến cuối đời, ngài đã để hết tâm trí miệt mài dịch kinh, viết sách để truyền đạt tư tưởng giáo lý của Phật Tổ, vừa phát huy được truyền thống bản sắc văn hóa dân tộc, tụng kinh tiếng Việt.
Khóa lễ cung tiến giác linh tại tổ đường |
Năm 1963, ngài là Cố vấn Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, lãnh đạo giáo phái Thiền tịnh đạo tràng đứng chung với 11 tổ chức Phật giáo miền Nam, đấu tranh chống chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm. Ngày 22-8-1963, ngài và toàn bộ Tăng chúng tổ đình đã bị chính quyền Diệm bắt giam tại Rạch Cát cùng chung với các vị lãnh đạo Ủy ban Liên phái.
Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập, ngài là thành viên của Hội đồng Trưởng lão Viện Tăng thống. Sau đó, vì có quan điểm khác nhau, nên một số tổ chức Phật giáo đã đứng ra ngoài Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để thành lập Tổng Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ngài được chư vị lãnh đạo Tổng Giáo hội suy tôn lên ngôi vị Pháp chủ.
Trên bước đường hành đạo, trải bao gian khổ, ngài đã cùng môn đệ xây dựng thêm nhiều cảnh chùa thuộc tổ đình Phật Bửu thiền tịnh đạo tràng, cùng mang tên Phật Bửu tại Quảng Ngãi, Bình Định, Châu Đốc, Mỹ Tho, Bến Tre, Long An, Bà Rịa - Vũng Tàu và các quận huyện ở thành phố như: quận 4, Bình Thạnh, Hóc Môn. Năm 1974, thêm một ngôi chùa Phật Bửu tại Long Hải được ra đời.
Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh, Thành viên Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM, đại diện môn đồ pháp quyến tổ đình Phật Bửu tác bạch cúng dường trai Tăng |
Năm 1975, vì tuổi già sức yếu và thọ bệnh, ngài cho xây tháp tại Phật Bửu Tự Hóc Môn và di huấn cho đệ tử lo việc tu học, điều hành môn phái. Ngày mồng 5 tháng 5 năm Bính Thìn (2-6-1976), ngài đã an nhiên thị tịch vào lúc 20 giờ sau thời kinh Di Đà. Ngài trụ thế 82 tuổi, 52 Hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, xá-lợi ngài được tôn trí vào các bảo tháp ở tổ đình Phật Bửu ở quận 3, Phật Bửu - Hóc Môn và Phật Bửu - Phước Vân.