Trăng bạc giữa rừng thiền

Bài trên Báo Giác Ngộ số 1311 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
Bài trên Báo Giác Ngộ số 1311 - Thiết kế: Phòng Mỹ thuật BGN/Tống Viết Diễn
0:00 / 0:00
0:00
GNO - Hòa thượng Khánh Hòa luôn được nhớ đến và nhắc đến trước nhất khi đề cập đến phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Ngài có thể được coi là một trong số những người đầu tiên khởi xướng cho phong trào này, với những hoạt động hết sức cụ thể mang tính canh tân, trong đó có việc tham gia xuất bản những tờ báo Phật giáo đầu tiên, mà nổi bật nhất trong số đó là Từ Bi Âm. Tạp chí Từ Bi Âm ra mắt vào ngày 1-3-1932, có thể coi là tiếng nói của Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học do Hòa thượng Khánh Hòa làm Chủ nhiệm. Mặc dù vậy, Hòa thượng Bích Liên lại là người quán xuyến về nội dung của tờ báo này trong thời kỳ ngài đảm nhiệm vai trò Chánh Chủ bút.

Ngược về trước đó, vào năm 1928, Hòa thượng Khánh Hòa gặp Hòa thượng Trí Hải tại Quy Nhơn, khi ngài được mời ra làm Pháp sư cho Trường hương tổ đình Long Khánh. Duyên kỳ ngộ này đã đưa tới việc Hòa thượng Trí Hải mặc dù xuất thân từ Bình Định nhưng lại có sự gắn bó đặc biệt với Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học và các hoạt động hoằng pháp trên báo chí tại miền Nam.

Các thành viên tòa soạn báo Từ Bi Âm. Hòa thượng Bích Liên ở vị trí thứ 3 từ trái sang, hàng ngồi
Các thành viên tòa soạn báo Từ Bi Âm. Hòa thượng Bích Liên ở vị trí thứ 3 từ trái sang, hàng ngồi

Hòa thượng Bích Liên xuất gia khá muộn, vào năm 1919, khi đã 43 tuổi. Ngài xuất gia tại chùa Sắc tứ Thạch Sơn (H.Tư Nghĩa, Quảng Ngãi) với Hòa thượng Hoằng Thạc, được bổn sư ban cho pháp danh Chơn Giám, tự là Đạo Quang, pháp hiệu là Trí Hải, nối dòng Lâm Tế đời thứ 40, pháp phái Chúc Thánh đời thứ 7. Ngài sinh năm 1876, vốn xuất thân từ một gia đình Nho học, theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ, 2 lần đỗ tú tài nên có kiến văn hết sức uyên thâm. Dường như chính nhờ nền tảng này cùng với việc trải qua nhiều biến cố khiến ngài chuyên tâm với sự tu học, chỉ sau vài năm bước vào chốn cửa thiền, Hòa thượng Trí Hải đã nức tiếng với sự quảng kiến đa văn và am tường Phật học, được hết sức kính trọng. Cũng do đó, về sau, khi ngài khai sơn chùa Bích Liên (P.An Nhơn Đông, Gia Lai) vào năm 1934, chư sơn đã gọi ngài bằng danh xưng là Hòa thượng Bích Liên thay vì gọi bằng pháp hiệu để bày tỏ sự kính trọng.

Gắn bó với Từ Bi Âm

Hành trạng của Hòa thượng Bích Liên kể từ khi xuất gia đến ngày viên tịch đa phần đều gắn liền với hoạt động hoằng pháp bằng phương tiện báo chí, giảng dạy Tăng chúng và trước tác một số sách. Về báo chí, như đã nêu, Hòa thượng Bích Liên đứng tên Chánh Chủ bút tạp chí Từ Bi Âm trong khoảng 6 năm, từ năm 1933 đến năm 1939, coi sóc về phần bài vở, nội dung, có thể được xem là nắm giữ linh hồn của tờ báo. Đồng thời, với sự quảng giao của mình, Hòa thượng cũng đã thỉnh mời được nhiều tên tuổi lỗi lạc trong chư sơn Tăng-già cộng tác mật thiết với báo như: Pháp sư Liên Tôn, Pháp sư Thiên Dụng, Pháp sư Giác Nhựt và đặc biệt là thầy Lê Kim Ba, một người cực kỳ uyên thâm về Hán văn, Pháp văn và Phật học.

Cũng cần nói thêm, chính Hòa thượng Bích Liên, vào năm 1940, làm bổn sư thế độ cho thầy Lê Kim Ba xuất gia, về sau trở thành Pháp sư Trí Độ, vị Đốc giáo Trường An Nam Phật học, đã đào tạo nên một loạt Tăng tài giữ vai trò chủ chốt trong dòng vận động của Phật giáo thế kỷ XX như: Hòa thượng Trí Quang, Hòa thượng Thiện Siêu, Hòa thượng Trí Tịnh, Hòa thượng Thiện Minh, v.v…

Giai đoạn mà Hòa thượng Khánh Hòa cùng với sự phụ tá đắc lực của Hòa thượng Bích Liên đóng vai trò chủ chốt, có thể coi là lúc Từ Bi Âm có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Nội dung tờ báo được trình bày bằng Quốc ngữ súc tích, dễ hiểu; với các chuyên mục phong phú đa dạng chủ yếu nhằm phổ biến giáo lý Phật pháp và các thông tin xoay quanh đời sống tòng lâm trong vùng Nam kỳ lục tỉnh. Đôi lúc, một số bài viết đăng trên các số báo Từ Bi Âm cũng có chút hóm hỉnh, châm biếm nhẹ nhàng nhưng cũng khá trực diện nhiều vấn nạn trong cửa chùa, gợi lên suy nghĩ về hướng đi mới cho nền Phật học và đời sống Tăng-già. Chính điều đó đã giúp Từ Bi Âm tiếp cận được với quần chúng, thổi vào luồng sinh khí cho đời sống Phật giáo đương thời.

Cổng chùa Bích Liên - Ảnh: Lam Điền
Cổng chùa Bích Liên - Ảnh: Lam Điền

Giai đoạn ngắn ngủi tại Tam Bảo chí

Theo các bản tiểu sử hiện tồn, năm 1937, Hòa thượng Bích Liên đã rời miền Nam để về lại trú xứ chùa Bích Liên. Tuy nhiên, vai trò Chánh Chủ bút của ngài vẫn xuất hiện trên Từ Bi Âm cho đến số báo 163 xuất bản tháng 6-1939 thì mới được thay bằng Pháp sư Liên Tôn.

Ngày 15-1-1937, tờ Tam Bảo chí, cơ quan ngôn luận của Hội Đà Thành Phật học ra số đầu tiên. Trụ sở của Hội cùng với tòa soạn báo đặt tại chùa Sắc tứ Phổ Thiên, nay là chùa Phổ Đà (TP.Đà Nẵng). Hòa thượng Bích Liên xuất hiện với vai trò Chánh Chủ bút của tạp chí. Như vậy nếu xét theo mốc thời gian, trong thời kỳ này, Hòa thượng Bích Liên cùng lúc đảm nhiệm vai trò Chánh Chủ bút của cả hai tờ tạp chí Từ Bi Âm tại Nam kỳ và Tam Bảo chí tại Đà Nẵng (?!) Tuy nhiên, mật độ xuất hiện của các bài viết đăng tải trên Từ Bi Âm do Hòa thượng Bích Liên là tác giả bắt đầu thưa thớt từ sau năm 1937 cho đến khi ngài thôi chức danh Chánh Chủ bút vào năm 1939. Song song với đó, trong thời gian tồn tại ngắn ngủi chỉ vỏn vẹn hơn 1 năm, các bài viết của Hòa thượng Bích Liên xuất hiện khá thường xuyên trên Tam Bảo chí. Như vậy, khoảng thời gian này, có lẽ vai trò của Hòa thượng Bích Liên trên tạp chí Từ Bi Âm đơn thuần chỉ còn là “giữ tên”.

Sang đầu năm 1938, Tam Bảo chí đình bản với nguyên do thiếu tài chánh lẫn người cộng tác. Sự thành công ở việc phát triển tạp chí Từ Bi Âm của Hòa thượng Bích Liên đã không thể tiếp nối được ở Tam Bảo chí. Sau thời điểm này, Hòa thượng Bích Liên lui gót về trụ xứ và gần như không có thêm điểm nổi bật nào trong hành trạng cho đến ngày viên tịch. Mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian rất ngắn ngủi, tuy nhiên, Tam Bảo chí đã góp thêm một tiếng nói làm phong phú cho phong trào Phật học tại miền Trung lúc bấy giờ. Trong số các vấn đề được nêu lên trong tờ báo, có một điều đáng kể được đề cập đến đó là ý tưởng xây dựng một Hội Việt Nam Phật giáo Liên hiệp nhằm tập hợp Tăng Ni, Phật tử toàn quốc trong một tổ chức duy nhất.

Một bản văn nghi lễ đặc sắc bằng Quốc ngữ

Mông sơn thí thực (蒙山施食) là một khoa nghi đặc biệt trong nghi lễ Phật giáo tại nước ta, đặc biệt phổ biến trong chốn thiền môn tại miền Trung và Nam Trung Bộ. Mông sơn thí thực được truyền từ Trung Hoa vào nước ta, cộng hưởng với tinh thần “từ bi cứu khổ” đã thấm đẫm trong triết lý đời sống văn hóa của người Việt, trở nên hết sức phổ biến. Phép Tiểu Mông sơn trở thành nghi thức thường nhật, được thực hiện vào mỗi buổi công phu chiều tại các chùa tại Trung và Nam Trung Bộ. Riêng khoa nghi Mông sơn thí thực, còn gọi là Trung khoa, hay được biết đến với cái tên dân dã hơn là nghi Đăng đàn chẩn tế vốn thường được thực hiện vào những dịp đại lễ hoặc vào tháng Bảy âm lịch. Hiện nay, bản Mông sơn thí thực khoa nghi khắc in thời Khải Định, tàng bản tại chùa Báo Quốc (TP.Huế) là bản văn bằng chữ Hán được sử dụng phổ biến nhất trong các nghi thức chẩn tế của Phật giáo miền Trung.

Trang đầu trong quyển Mông sơn thí thực khoa nghi
Trang đầu trong quyển Mông sơn thí thực khoa nghi

Năm 1922, một bản Mông sơn thí thực khoa diễn quốc âm (蒙山施食科演國音) đã được cho khắc in tại chùa Vĩnh Khánh (Quảng Ngãi). Đây là bản diễn Nôm nghi thức này do Hòa thượng Bích Liên diễn nghĩa và được Hòa thượng Chí Tâm sao lục vào năm 1918, có lẽ cũng là bản diễn Nôm đầu tiên của nghi thức này tại nước ta.

Trong Mông sơn thí thực khoa diễn quốc âm, bản diễn Nôm nghi thức này dẫu trung thành với nội dung trong nguyên văn chữ Hán nhưng lại thể hiện trình độ nhuần nhuyễn, mẫu mực trong việc sử dụng quốc âm của Hòa thượng Bích Liên. Phần diễn Nôm có lúc theo lối thất ngôn hoặc biền ngẫu, có khi dùng thể lục bát, tuy uyển nhã nhưng vẫn gần gũi, dễ đi vào lòng người.

Nếu đối chiếu mốc thời gian được ghi trong tàng bản chùa Vĩnh Khánh: “Thiên vận Mậu Ngọ niên hạ mạnh”, tức vận trời tháng Tư năm Mậu Ngọ (1918) thì bản diễn Nôm này phải được Hòa thượng Bích Liên thực hiện từ trước khi ngài xuất gia và được Hòa thượng Chí Tâm chùa Vĩnh Khánh sao lục và khắc in sau đó vào năm Nhâm Tuất (1922). Khoảng thời gian năm 1918 cũng là khi ngài trải qua những biến cố vô cùng đau thương trong đời sống của một hàn Nho, thấu hiểu nỗi phù du của kiếp đời để rồi phát khởi chí nguyện xuất gia đầu Phật. Có lẽ cũng vì vậy, những câu diễn Nôm trong Mông sơn thí thực khoa diễn quốc âm đều đạt đến tột bậc xúc cảm, u hoài cho kiếp nhân sinh. Và cũng không quá lời khi nói, Mông sơn thí thực khoa diễn quốc âm của Hòa thượng Bích Liên cũng xứng đáng được coi là một trong những tác phẩm Nôm trác tuyệt bậc nhất trong di sản Phật giáo Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học dân tộc nói chung.

Hòa thượng Chơn Giám Trí Hải viên tịch tại chùa Bích Liên vào ngày 3-6-Canh Dần (7-7-1950), sau khoảng thời gian dừng bước hoằng hóa và trở về tịnh trú tại đây vào năm 1941. Trong 1 thập niên sau cùng, ngài gần như không để lại thêm một trước tác nào nữa.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 389/GP-BTTTT ngày 02-8-2022
Tổng Biên tập: Thượng tọa Thích Tâm Hải
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2025 - Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.