Sự tích về cái mõ cá của nhà Phật

Sự tích về cái mõ cá của nhà Phật
0:00 / 0:00
0:00
NSGN - Đây là cái mõ làm bằng gỗ hình con cá nên còn gọi là mộc ngư. Mộc ngư , xưa gọi mộc ngư cổ, mộc đạc, ngư cổ, ngư bản ; truyền thống là một pháp khí.

Mõ trong Phật giáo làm từ các loại gỗ chắc dẻo, cứng, để gõ lâu hư, thường có hình con cá hay bẹt, phẳng hoặc hình dáng cái bát, cầu dẹt, rất hiếm hoi nó giống như một chiếc đầu lâu1 với nhiều kích cỡ to nhỏ khác nhau, tất cả ở giữa đều khoét rỗng, hình lòng máng để khi gõ phát ra tiếng. Dùi gõ mõ cũng làm bằng gỗ, kích cỡ của dùi to nhỏ tương xứng với kích cỡ của mõ. Tùy theo kích cỡ lớn nhỏ mà âm lượng cũng có khác. Mõ được chạm khắc có nguồn gốc từ Đông Á sử dụng bởi các nhà sư và cư sĩ trong truyền thống Phật giáo Đại thừa2. Chúng được sử dụng trong các nghi lễ Phật giáo ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và các nước châu Á khác.

Mộc ngư thường được sử dụng trong các nghi lễ liên quan đến việc tụng niệm chân ngôn hoặc kinh văn Phật giáo. Trong Phật giáo Thiền tông, mộc ngư dùng để gõ nhịp trong khi tụng niệm. Trong Phật giáo Tịnh độ tông, chúng được sử dụng khi tụng niệm danh hiệu Phật A Di Đà… Hay có khi là dùng để báo hiệu giờ thọ trai, đánh thức Tăng chúng…3.

Tiếng mõ vừa giữ cho buổi lễ được trang nghiêm, lại vừa giúp cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành lễ. Khi gõ thì phát ra tiếng cóc cóc… âm vang đều đặn, sâu lắng.

Những câu chuyện suy nguyên về cái mõ cá

Mặc dù mộc ngư có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng có rất nhiều câu chuyện liên quan đến việc tạo nên nó.

Trong kinh Phật có câu chuyện chép rằng: “Trong gia đình Bà-la-môn có người con tên là Bạc-câu-la, thuở nhỏ mẹ ruột đã qua đời, người mẹ kế vô cùng khắc nghiệt ngược đãi, có lần cha ngài không có ở nhà nên bị mẹ kế đánh, đem ngài ném xuống sông, con cá to bèn nuốt trọng, cá này bị người chài lưới bắt rồi đem ra chợ bán và được phụ thân của ngài Bạc-câu-la mua về.

Khi đem về nhà, lúc làm thịt thì nghe tiếng kêu cứu của ngài Bạc-câu-la, ông bèn cứu được con mình ra. Sau này ngài quy y Phật, trở thành người sống thọ đến 160 tuổi”.

Thế nhưng, sau khi câu chuyện này truyền đến Trung Quốc thì tình tiết của nó trở nên thay đổi: Vào đời Đường, ngài Huyền Trang từ Tây Vực thỉnh kinh trở về. Khi đi qua đất Thục, gặp một trưởng giả và được mời đến nhà ông để thọ trai. Con của trưởng giả này bị vợ kế hãm hại, đem ném xuống sông và bị con cá nuốt trọng, sau được trưởng giả mua cá về làm thịt thì thấy con mình trong đó. Sau khi nghe được chuyện ấy, ngài Huyền Trang nói: “Cá vì cứu đứa con mà bị chết nên phải dùng gỗ khắc hình cá treo ở trong chùa, mỗi khi đến giờ cơm thì đánh lên nhằm để báo đáp ân nó”.

Cùng với xu hướng coi cái mõ cá là một vật phẩm để tri ân con cá, chúng ta có hai dị bản sau đây:

Trong Pháp khí môn, sách Bách Trượng thanh quy chép: “Thuở xưa, có Tỳ-kheo trái lời thầy dạy, thường chê bai giới pháp. Sau khi chết đi bị đầu thai thành cá, nhưng trên lưng cá có một gốc cây dài, trong biển sóng cuồn cuộn nổi lên, lưng cá dao động không thôi, da thịt bị rách nát, máu chảy rất nhiều, con cá này đau khổ vô cùng”.

Về sau vị thầy có việc qua biển, cá bèn quậy sóng, nói với vị thầy rằng: Vì trước kia ông không dạy, nên mới ra nông nỗi này, vì thế tôi nay báo oán giết chết ông.

Vị thầy ôn tồn hỏi tên họ của nó. Sau khi cá đáp xong, thầy mới biết duyên do quả báo, bèn khuyên nó sám hối và thiết lập pháp hội siêu độ.

Sau vị thầy nằm mộng thấy nó thoát khỏi thân cá và còn yêu cầu đem khúc gỗ trên thân nó đẽo thành hình cái mõ cúng dường Tăng chúng, nhằm để có dịp thân cận Tam bảo. Vị thầy khi tỉnh mộng đi ra biển, quả nhiên thấy khúc gỗ và thây cá. Sau đó đem về khắc hình con cá và treo trong chùa, rồi định giờ khắc mà đánh, để biểu thị răn nhắc đại chúng”.

Theo Truyện cổ Phật giáo4, Sự tích cái mõ kể như sau:

Ngày xưa, có một vị Hòa thượng trụ trì một cảnh chùa ở gần bờ sông trong một thôn quê. Mỗi khi có việc ra tỉnh, ngài quá giang bằng chiếc đò ngang. Hôm ấy nhằm ngày 13 tháng Bảy, ngài quá giang ra tỉnh để chủ lễ một đàn kỳ siêu. Khi đò ra tới giữa dòng sông cái thì thấy sóng nổi lên ầm ầm làm cho thuyền tròng trành muốn đắm. Ai nấy ở trên đò cũng đều hoảng hốt vô cùng thì ngay lúc ấy, bỗng nhiên thấy nổi lên trên mặt nước một con cá kình rất lớn, giương hai mắt đỏ ngầu mà nhìn chăm chăm vào vị Hòa thượng kia. Nhưng Hòa thượng vẫn bình tĩnh ngồi niệm Phật.

Trong khi đó, con cá liền cất cao cái đầu lên khỏi mặt nước mà lắp bắp cái miệng nói: “Hỡi hành khách ở trên đò! Các người muốn được yên lành, hãy liệng lão ác tăng xuống đây cho ta để nuốt chửng nó đi cho hả cơn giận. Các người có biết không, ngày trước, ta theo lão tu đạo, lão không chịu giảng dạy chi cả, cứ buông lỏng cho ta muốn làm gì thì làm, không hề kiềm chế. Vì vậy, ta mới sinh ra lười biếng, chỉ lo rong chơi ăn ngủ theo thế tục, không thiết gì tới công phu bái sám, ăn chay niệm Phật và chăm sóc công việc chùa. Không những thế, mỗi khi có đám tiệc lại để cho ta mang hậu đắp y để khoe khoang với đại chúng và bổn đạo. Vì những tệ đoan như thế nên sau khi ta chết, phải đọa vào loài súc sanh làm thân cá kình, đi tới đâu thì ồ ạt tới đó, làm cho những tôm cá chạy tét đi hết, không có cái gì để ăn, phải chịu đói khát, rất cực khổ, thiệt khổ còn hơn loài quỷ đói nữa. Vì thế mà ta chỉ oán lão thôi, còn các người đối với ta vô can, ta không muốn làm hại ai cả”.

Nghe cá nói xong, sư cụ liền mỉm cười mà đáp rằng: “Này nghiệt súc! Nhà ngươi nói thế mới thật là thậm ngu. Há ngươi không hiểu câu phương ngôn: Ðạp gai, lấy gai mà lễ, hay sao? Nếu ngươi đã biết vì tạo những tội lỗi như thế mà phải đọa làm thân cá thì nhà ngươi cần phải ăn năn sám hối tội lỗi và tạo duyên lành, ngõ hầu mới được tội diệt phước sanh, rồi mới mong thoát khỏi được quả báo. Ta là thầy ngươi, mỗi khi dạy ngươi đúng theo giới luật thì ngươi bảo là quá nghiêm khắc, hay la rầy quở phạt, còn thả lỏng cho ngươi không nghiêm trị thì ngươi quen tánh mông lung, thành thử mới phải đọa làm loài cá. Một khi bị đọa, ngươi cần phải sám hối và báo cho ta biết để tụng kinh siêu độ và xả tội cho, còn nếu như muốn ăn thịt ta thì lấy ai để cứu ngươi nữa. Ðã có tội, không biết ăn năn mà còn kiếm cách đỗ lỗi cho người. Phạm Phật thì có Tăng cứu, còn như phạm Tăng thì Phật không độ. Ngươi có hiểu câu đó chăng? Loài súc sanh kia!

Sư cụ quở vừa dứt lời thì cá kình kia cũng lặn chìm xuống dưới đáy nước.

Kế đó, sau bảy ngày đêm vang tiếng tụng kinh cầu siêu độ tại chùa thì cá kình liền trồi lên mặt nước, lết thẳng tới sân chùa, nằm dài một đống và hướng vào trong chùa mà nói rằng: “Bạch thầy, mấy hôm nay, nhờ công đức của thầy và chư Tăng Ni chú nguyện và tụng kinh siêu độ nên con đã được tiêu nghiệp, thoát kiếp cá kình và sanh lên cõi trời Dục giới. Trước khi lên cõi trời để hưởng sự khoái lạc của chư thiên, con xin đến đây thành tâm đảnh lễ tạ ơn thầy cùng chư Tăng Ni và con nguyện lưu cái xác thân cá kình tại chùa để mỗi ngày, chư Tăng Ni cầm cây gõ lên đầu con, ngõ hầu làm gương cho những vị nào tu hành còn biếng nhác, ưa khoe khoang, tự tôn, tự đại, không chịu khép mình vào vòng giới luật và cũng là để nhắc nhở cho những vị ấy nhớ tới bổn phận tu tâm, hành đạo, để khỏi xao lãng công phu bái sám, niệm Phật tu thiền, thúc liễm thân tâm, nghiêm trì giới luật.

Vì sự tích như đã kể ở trên mà từ ngày ấy tới nay, cái mõ mới trổ theo hình con cá để làm kỷ niệm mà thức tỉnh người tu hành.

Cũng nhằm suy nguyên về nguồn gốc cái mõ cá, trong kho tàng cổ tích Phật giáo lại có truyền thuyết kể lại sự việc theo một hướng khác. Truyện kể rằng: Một nhà sư đi đến Ấn Độ để thỉnh kinh nhưng trên đường đi nhà sư gặp phải một con sông rộng, đang mùa nước lớn tràn bờ. Một con cá đã đề nghị chở nhà sư qua sông vì muốn chuộc lại tội lỗi mà nó đã gây ra khi còn là một con người. Yêu cầu của con cá đơn giản là trên đường nhà sư đi thỉnh kinh, nhà sư có thể thỉnh cầu Đức Phật hướng dẫn cho con cá cách thức để đạt được Bồ-tát đạo. Nhà sư đã đồng ý với thỉnh cầu của con cá và tiếp tục nhiệm vụ của mình. Khi trở về Trung Quốc sau 17 năm với kinh sách, nhà sư đã đến trước một dòng sông nước lũ. Cũng chính con cá đã trồi lên hỏi nhà sư về lời thỉnh cầu của nó với Đức Phật nhưng nhà sư nói rằng mình lỡ quên đi mất. Con cá giận dữ hất nhà sư xuống sông. Một ngư dân đi ngang qua đã cứu được nhà sư sắp chết đuối nhưng tất cả các kinh sách đã bị cuốn trôi và chìm sâu xuống đáy sông. Đầy tức giận, nhà sư đã làm một hình nộm bằng gỗ có hình đầu của một con cá và gõ bằng búa gỗ. Thật ngạc nhiên, mỗi lần nhà sư gõ mộc ngư, nó sẽ phát ra âm thanh của một ký tự Trung Hoa. Nhà sư trở nên vui vẻ đến nỗi gõ mộc ngư đều đặn. Sau một vài năm, nhà sư đã nhận lại được những kinh sách bị cuốn trôi trong nước lũ từ miệng mộc ngư5.

Những kiểu loại khác nhau của chiếc mõ cá

Mộc ngư có nhiều kích cỡ và hình dạng, từ 150 mi-li-mét, dùng cho các tín đồ tại gia hoặc trong thực hành tu tập hàng ngày; hoặc đến 1,2 mét được sử dụng trong các ngôi chùa.

Phương pháp để điêu khắc mộc ngư, trước hết là đem một gốc cây chạm thành hình con cá xong xuôi rồi mới khoét rỗng ruột, ngoại hình phải chạm đầu, vây, đuôi. Sau đó sơn phết, rồi vẽ mắt.

Theo bộ Thích thị yếu lãm - còn gọi là Phật học bị yếu chép:

“Tỳ-kheo hỏi Phật, dùng gỗ gì để làm kiền chùy? Phật dạy: Ngoài cây sơn ra, còn tất cả những loại cây khác, chỉ cần đánh có tiếng kêu thì đều làm được”.

- Truyền thống

Mộc ngư tức mõ cá, cái mõ hình con cá của nhà chùa, làm bằng gỗ (cây). Đại để có hai thứ: Một thứ hình tròn hay hình bầu dục, có quai hình đầu cá dùng để khi tụng kinh, điều khiển buổi lễ lúc đông người cùng tụng cho được nhịp nhàng, mà không bị lộn xộn… Một thứ nữa hình thẳng và dài hay có hình điếu như con cá 6 thường khi treo ở nhà trù, dùng để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác.

Một là, mộc ngư sử dụng khi tụng kinh thì tròn, khắc chạm hình cá7. Loại mộc ngư hình tròn này có đơn ngưsong ngư. Đơn ngư là đầu đuôi nối tiếp nhau. Song ngư tạo hình hai chiếc đầu cá ôm một viên ngọc (tượng trưng cho sự hòa hợp), về sau này xuất hiện mộc ngư hình rồng 1 thân 2 đầu hướng vào nhau cùng ngậm hạt châu. Thuyết này lấy từ tích “cá hóa rồng” nhằm để biểu đạt từ phàm phu trở thành bậc thánh8.

Trong đám tang, đám rước đi chầm chậm và xướng hợp với những âm thanh gõ lên mộc ngư. Còn những mục đích khác như để cầu mưa. Trong Nho giáo, mộc ngư được gõ vào những khoảng thời gian cụ thể để biểu thị các giai đoạn nhất định của nghi lễ tại ngôi đền. Trong Phật giáo, mộc ngư được gõ trong khi tụng niệm tôn danh của Đức Phật.9 Chiếc mõ cá tròn dùng để đánh khi đọc kinh, nhằm để hòa âm, cảnh tỉnh hôn trầm của đại chúng, trong tự viện mõ có lớn nhỏ bất đồng, lớn thì để trên giá, nhỏ thì cầm tay, mõ có tác dụng điều tiết nhịp điệu, tỉnh thức tinh thần.

Mộc ngư thông thường trong các ngôi chùa Trung Hoa được đặt ở phía bên trái bàn thờ, cạnh bát chuông, đi cùng chiếc dùi gỗ. Mộc ngư thường đặt nằm trên một tấm đệm thêu nhỏ để tránh phát ra những tiếng gõ khó nghe khi mộc ngư được đặt nằm trên một mặt bàn hoặc mặt đất cứng, cũng như tránh làm hư hỏng mộc ngư.

Hai là, mộc ngư được sử dụng để báo chúng thọ trai thì gọi là ngư bảng, có hình con cá dài, bình thường treo ở hành lang của trai đường, nhà kho10. Loại mộc ngư nguyên bản này được tạo hình con cá theo đúng nghĩa đen. Ngày nay thì trong thiền lâm có đẽo cái ngư bảng mình hình con cá, đầu hình rồng, miệng ngậm trái châu, treo phía ngoài nhà tăng hoặc nhà trai. Tuy nhiên, đây chỉ là một hình thức biến tấu của loại mộc ngư ngày xưa. Cùng với chuông và trống chùa lớn, nó được treo lơ lửng trước các tu viện Phật giáo. Khi tiến hành các nhiệm vụ khác nhau (chẳng hạn như ăn uống, thuyết pháp hoặc làm những việc lặt vặt), một vị Tăng và người quản giáo sử dụng chiếc mõ này để kêu gọi tất cả các tu sĩ thực hiện nhiệm vụ của họ. Trong lịch sử, đó là mộc ngư đầu tiên được hình thành, và dần dần phát triển thành mộc ngư tròn được các Phật tử đương đại sử dụng.

Trong thiền lâm thời xưa, ngư bảng thường treo ở nhà tắm, đánh lên để đại chúng biết giờ đi tắm. Sách Thiền lâm tượng khí tiên, Đệ nhị thập loại bái khí môn chép: “Trong quyển Sa-di nghi nhập dục ghi rằng: Nước lạnh hay nóng cứ theo thường lệ mà đánh ngư bảng, không được gọi to”.

Ngoài ra cũng có một loại mõ rất nhỏ dùng để chư Tăng đi kinh hành gọi là nhiễu Phật.

Trong Phật giáo Hàn Quốc, mộc ngư được sử dụng rộng rãi hơn. Hai từ riêng biệt được sử dụng trong tiếng Hàn Quốc để phân biệt các loại mộc ngư khác nhau. Moktak đề cập đến một biến thể cầm tay, có kích thước nhỏ hơn,có thể có hoặc không có những vật phẩm trang trí và có hình dạng thuôn dài hơn. Nó có một tay cầm để dễ dàng mang theo trong quá trình sử dụng khi di chuyển. Trong khi mogeo có nghĩa là một mảnh có kích thước đầy đủ giống như một con cá hoặc rồng, có lõi rỗng. Mogeo thường được treo trên trần nhà và gõ bằng hai cây gõ đánh từ đáy của lõi rỗng.

Tại Nhật Bản, mộc ngư được gọi là mokugyo, và một số vật phẩm mộc ngư khổng lồ được tìm thấy trong các ngôi chùa Phật giáo nặng hơn 300 kg.

Ở Trung Quốc, tên tiếng Mãn Châu là toksitu.

Còn ở Việt Nam, mộc ngư là .

- Hiện đại

Những loại mộc ngư phổ biến nhất được sử dụng vẫn là các nhạc cụ truyền thống có hình tròn và thường được làm bằng gỗ. Tuy nhiên, các chất liệu khác nhau hiện nay cũng được sử dụng như nhựa composite. Tất cả các nhạc cụ đều có lõi rỗng với một gờ bên ngoài tạo ra âm thanh rỗng khi đánh. Âm thanh rỗng khác nhau giữa các loại mộc ngư do kích thước, chất liệu và kích thước của phần rỗng bên trong của chúng. Thường thì chiếc dùi dùng để gõ có đầu bọc cao su nhằm tạo ra âm thanh bị bóp nghẹt nhưng rõ ràng khi đánh.

Công dụng

Mõ có rất nhiều công dụng, trước hết là dùng để tán tụng hòa điệu tiết tấu âm nhạc, đồng thời cũng biểu đạt sự tinh tấn không ngừng của đại chúng.

Mõ còn dùng để tập hợp Tăng chúng: Trong Sắc tu Bách Trượng thanh quy, quyển 8 chép: “Mộc ngư, hai thời cơm cháo đánh hai hồi dài, phổ thỉnh Tăng chúng đánh một hồi dài, phổ thỉnh hành giả đánh hai hồi dài”.

Mõ còn dùng để đánh canh, báo sáng. Kinh Phật chép: “Mỗi ngày khi giao thoa giữa thời khắc trong năm canh, hành giả các tự viện gõ kẻng hoặc gõ mõ để tuần hành báo sáng”.

Về sau mõ cũng là một công cụ để các Tỳ-kheo đi khất thực hóa duyên, đánh liên tục lên để cảnh tỉnh người đời phát tâm từ bi.

Khi đánh mõ hành giả thầm tưởng bài kệ:

Phiên âm:

Gia trì mật niệm tẩy trần tâm

Mộc ngư khuyến hướng

chuyển tam thinh

Thánh chúng lục hòa

tuyên bối diệp

Tứ sinh cửu hữu xuất phàm trần.

Án kim cang trang nghiêm tóa ha (3 lần).

Tạm dịch:

Trì thêm mật ngữ hết lòng trần

Mõ khua ba tiếng chuyển tâm thân

Bốn chúng sáu hòa tuyên kinh kệ

Bốn loài chín cõi thoát trầm luân.

Án kim cang trang nghiêm

tóa ha (3 lần).

Trong Bách Trượng thanh quy có chép:

“Tương truyền cá ngày đêm thường tỉnh, bèn khắc hình nó để đánh, nhằm cảnh tỉnh sự hôn trầm của đại chúng, cũng nhằm nhắn nhủ: Tăng chúng khi tụng kinh phải gõ mõ, nhân vì tất cả loài cá khi ngủ con mắt không nhắm. Cho nên người xuất gia mượn hình tượng cá để biểu thị sự tinh tấn, không dám lười biếng”.

Trong bộ Sắc tu thanh quy pháp khí, về chương mộc ngư có chép:

Lời tương truyền: Loài cá là loài luôn thức chứ không bao giờ ngủ và rất hay hoạt động. Vì vậy khi mõ được chạm trổ theo hình con cá, với thâm ý là muốn thức tỉnh con người cũng như chúng hữu tình đang còn trong mê muội, u tối và trầm luân… hãy mau mau tỉnh cơn mê.

Cũng trong sách Chính ngôn đời nhà Đường có chép:

Một hôm có vị cư sĩ đến hỏi một Trưởng lão ở Thiên Trúc rằng: Tại sao các tăng xá đều có treo mõ?

Trưởng lão trả lời: Vì để cảnh tỉnh chúng Tăng tại tăng xá hay tự viện ấy.

Vị cư sĩ hỏi tiếp: Nhưng tại sao lại tạc hình con cá?

Trưởng lão lúc ấy không trả lời được.

Cư sĩ lại hỏi ngài Hộ Biện, và được ngài giải thích rằng: Loài cá là loài không bao giờ nhắm mắt và thích hoạt động. Cũng vì muốn cho người tu hành ngày đêm quên ham ngủ, gắng công tu tập, để mau chứng đạo quả… nên mõ được tạc hình con cá có ý là vậy.

Như vậy, do loài cá không bao giờ ngủ, ngày đêm đều mở mắt tượng trưng cho sự tỉnh thức cho nên tạo mộc ngư để gõ, hầu sách tấn người tu hành11. Vì vậy, nó để nhắc nhở các tu sĩ khi tụng niệm tập trung vào kinh và âm thanh biểu trưng cho sự chú tâm tỉnh thức12. Mộc ngư có tác dụng làm cho hành giả tĩnh tâm, âm điệu hài hòa, khiến cho thân tâm rỗng lặng. Ngoài ra, nó cũng có thể tượng trưng cho sự giàu có và phong phú, dồi dào13. Điều này bắt nguồn từ sự tá âm: ngư/cá đồng âm với /dư dả. Trong mỹ thuật cổ, việc dùng hình cá trong các đồ án để chúc tụng sự dư dả, sung túc đặc biệt phổ biến.

Cách đánh mộc ngư thường là ở mức trung bình, không nhanh không chậm. Tuy nhiên tùy theo tiết tấu âm điệu, nghi thức, thời khóa, mà uyển chuyển nhanh chậm bất đồng. Nếu như cần phải đánh nhanh thì phải khởi đầu từ chậm rồi dần dần tăng tốc đến nhanh.

Theo cách xưng gọi về ngôn từ nghi lễ ở Việt Nam, khi phân vai đánh nhịp trong thời khóa, thì người đánh mõ gọi là duyệt chúng, nghĩa là làm đẹp lòng đại chúng, vì người đánh mõ nếu có trường canh vững chắc, biết điều tiết âm thanh nhanh chậm hợp lý, thì tinh thần đại chúng rất phấn chấn, đọc kinh ít thấy mệt.

Đối với các tự viện miền Nam Việt Nam thì mõ được để bên trái trước chánh điện từ ngoài nhìn vào, bên phải là chuông gia trì. Còn miền Bắc thì ngược lại.

Nhìn chung, trong sinh hoạt hằng ngày của một tự viện, lời kinh tiếng kệ ngân vang, với giọng Phạm âm hùng lực được uyển chuyển lên xuống trên nền nhịp mõ điều đặn khoan thai. Lúc ấy, làm cho lòng người trở nên thanh thản, vơi bớt những nỗi phiền muộn sầu lo, như đang thật sự trở về với bản tánh thanh tịnh.

Tóm lại, khởi đi từ đặc tính của một loài vật không bao giờ nhắm mắt để ngủ, cá được coi là biểu tượng cho sự tinh tấn, luôn tỉnh thức của người tu đạo nên chúng được sử dụng trong việc tạo hình nên một loại pháp khí đắc dụng của nhà Phật là cái mõ với nhiều kiểu loại khác nhau. Thế rồi, trong các ngữ cảnh văn hóa khác nhau, nguồn gốc của cái mõ lại được thế nhân sáng tạo nên những câu chuyện lý thú để giải thích về nguồn cội của nó. Lý sự của cái mõ là như vậy.

____________

(1) Blades, James (1992). Percussion Instruments and Their History. Bold Strummer. tr.391.

(2) Theo:

- Thích Minh Cảnh (chủ biên). Từ điển Phật học Huệ Quang, tập 5: L-M-N-NG, tr.4171.

- Louis Frederic, Phan Quang Định dịch (2005). Tranh tượng & thần phổ Phật giáo. NXB.Mỹ Thuật, tr.117.

(3) Đoàn Trung Còn (2011). Phật học từ điển. NXB.Tổng Hợp TP.HCM, tr.699.

(4) Minh Chiếu (1992). Truyện cổ Phật giáo. Thành hội Phật giáo TP.HCM xb, tr.397-400.

(5) Theo “The Legend of the Wooden Fish”.

[https://en.chinaculture.org/library/2008-01/11/content_44457.htm].

(6) Đoàn Trung Còn (2011). Phật học từ điển. NXB.Tổng Hợp TP.HCM, tr.699.

(7) Thích Minh Cảnh (chủ biên). Sđd.

(8) Thích Minh Cảnh (chủ biên). Sđd.

(9) Blades, James (1992). Percussion Instruments and Their History. Westport: Bold Strummer. tr.115.

(10) Thích Minh Cảnh (chủ biên). Sđd.

(11) Thích Minh Cảnh (chủ biên). Sđd.

(12) Theo:

Blades, James (1992). Sđd. tr.115.

“Mokugyo: Drumming for a Wakeful Mind with the Wooden Fish Drum’s Unique Sound”. Buddha Weekly: Buddhist Practices, Mindfulness, Meditation.

[https://buddhaweekly.com/drumming-for-a-wakeful-mind/].

(13) Blades, James (1992). Sđd. tr.115.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.