GN - Viết về Ni giới ngày nay có khá nhiều chủ đề mang tính thời sự, tính nhân văn đánh giá, ca ngợi sự đóng góp của Ni giới Việt Nam trong hoằng dương Phật pháp, trong các phong trào thi đua yêu nước, trong công cuộc chiến đấu bảo vệ và kiến thiết đất nước, giúp đỡ những người khó khăn với bao tấm gương điển hình của Ni giới Việt Nam dấn thân “dựng đạo để tạo đời sống an lạc”.
Song một vấn đề đang được đặt ra mà gần đây nhiều Tăng, Ni trẻ quan tâm và đã được một số vị chia sẻ quan điểm dưới những góc nhìn khác nhau, đó là Bát kỉnh pháp trong Phật giáo. Trước xu thế dân chủ hóa ngày càng cao và bình đẳng giới được tôn trọng, trong Phật giáo không ít người đã xuất hiện tư tưởng phải xem xét lại Bát kỉnh pháp là tám điều quy định của giới luật dành cho Tỳ-kheo-ni, đó là:
1. Một Tỳ-kheo-ni, dù có trăm tuổi hạ khi gặp vị Tỳ-kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ-kheo.
2. Một Tỳ-kheo-ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ-kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3. Tỳ-kheo-ni không được ngăn Tỳ-kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ-kheo. Trái lại, Tỳ-kheo được quyền cử tội Tỳ-kheo-ni.
4. Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ-kheo-ni và Tỳ-kheo.
5. Nếu Tỳ-kheo-ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma-na-đỏa) trong thời gian nửa tháng.
6. Nửa tháng phải đến bên Tỳ-kheo tăng cần cầu dạy bảo.
7. Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ-kheo ở.
8. Khi an cư xong, phải đến Tỳ-kheo Tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi. [HT.Thích Minh Thông, Báo Giác Ngộ, số Xuân 2002]
Đã có ý kiến cho rằng: Phật chế Bát kỉnh pháp để phân biệt Tăng và Ni; ý kiến khác chỉ ra Phật còn phân biệt nam, nữ; Phật không thương Ni giới mà bắt Ni phải tòng Tăng. Trong thực tế có một số vị Tăng vi phạm giới luật, không chịu tu học tinh tấn, trong khi nhiều vị Ni chăm chỉ tu học không chỉ thành danh trong nước mà cả nước ngoài, tích cực tham gia các công việc của Giáo hội và của xã hội, nhưng trước các vị Tăng thiếu tinh tấn Ni vẫn phải cung kính,… Vì thế không ít vị Ni tỏ ra bất bình khi phải phụ thuộc vào Tăng do quy định của Bát kỉnh pháp. Một số vị phản ứng cho đó là chuyện vô lý, có vị còn cho rằng Bát kỉnh pháp không phải do Đức Phật chế ra vì Đức Phật vốn bình đẳng ít ai bằng, Phật còn tôn trọng bình đẳng Phật tính của sự sống sao Phật có thể phân biệt Tăng và Ni. Bát kỉnh pháp chắc do ai đó có tâm muốn hạn chế Ni giới, muốn phân biệt Tăng, Ni mà chế ra rồi nhân danh Phật mà nói Phật chế,…
Chưa đồng thuận trong nhận thức về Bát kỉnh pháp chỉ là số ít nhưng lại là một trong những vấn đề tạo nên sự rạn nứt làm hạn chế gắn bó, làm giảm nội lực của tổ chức Phật giáo nếu không được chấn chỉnh. Gần đây có duyên may được gặp một số vị cao tăng trong GHPGVN tôi đã hỏi về việc trên, các vị đều cho câu trả lời khá giống nhau. Đặc biệt là Hòa thượng Đệ tam Pháp chủ GHPGVN, Hòa thượng không trả lời trực tiếp vào câu tôi hỏi mà dí dỏm nói:
Bát kỉnh pháp do ai chế ta khoan bàn, bởi khi chưa thấu triệt về giá trị của Bát kỉnh pháp mà đã đề cập tới người chế ra thì dễ ngộ nhận hoặc phủ quyết vì không rõ chứng, lý.
Bát kỉnh pháp trong nhà Phật dành cho Ni giới, nghe qua tưởng như là sự áp đặt, xem thường phụ nữ (Ni) mà đề cao nam giới (Tăng). Song ai là người có sự hiểu biết và tư duy nghiêm túc thì mới thấy rõ giá trị của Bát kỉnh pháp được chế ra dành cho Ni giới trên con đường xuất gia. Điều này tuy không đồng nhất nhưng cũng gần giống với việc trong cuộc sống, một người chu toàn khi đi đâu ra khỏi nhà phải có nón, có dù phòng khi mưa, khi nắng, hiện nay khi đi xe máy phải đội mũ bảo hiểm,… Việc biết đề phòng thì tránh hoặc hạn chế được nắng nóng, mưa ướt, nhưng không biết đề phòng thì khi mưa bị ướt, khi nắng bị nóng. Mang mũ bảo hiểm có người kêu nặng đầu, nóng bức và mấy khi bị tai nạn mà mang cho mệt thân. Nhưng khi không may bị tai nạn, người có mũ che thì đầu không bị thương, tỉnh táo còn người không có mũ thì sứt đầu vỡ trán bất tỉnh hôn mê. Trong cuộc sống từ xưa cho tới nay người hiểu biết luôn lo xa dự phòng, tính toán những gì bất trắc để chuẩn bị trước mà tránh sự thiệt hại ảnh hưởng không tốt tới bản thân và cuộc sống. Từ xưa cổ nhân đã dạy nắng lắm thì sắm thuyền vì sẽ mưa nhiều, rét lắm thì đan quạt rồi sẽ nắng nhiều, mưa lắm thì đan gầu vì sẽ hạn hán, phòng chiến tranh thì phải nuôi quân chế giáp binh súng đạn… ai biết dự báo đúng, dự phòng hiệu quả đó là người trí.
Bát kỉnh pháp không phải là dù, là mũ để che nắng tránh mưa, không phải là giáp binh phòng thân trước tên đạn nhưng nếu là phòng thân cho người nữ giới xuất gia thì đó là việc lo xa của bậc trí nhân. Bởi vì người chế ra Bát kỉnh pháp biết rõ căn tính của nữ giới: Kiên cường nào kém nam nhi nhưng thói thường nữ giới trong hoàn cảnh đơn thân cũng dễ bị ức hiếp bởi sự vô nhân tính của những kẻ bạo hành. Trí thông minh nữ giới nào kém chi nam nhưng do đặc điểm của chu kỳ sinh học, người nữ dễ thay đổi tính khí cáu bẳn hoặc mềm lòng, nếu không có sự giúp đỡ sát sao lúc đó dễ bị lợi dụng hoặc bị quy chụp vì thiếu sự thông cảm. Đức hiếu sinh ở người nữ ít người nam bì kịp nhưng nếu không được trí tuệ, cứng rắn dẫn dắt dễ bị lạm dụng làm lệch hướng chính tín của đường tu. Ai cũng biết nữ giới có kém cạnh gì so với nam giới về trí thông minh, ôn hòa, nhẫn nhục, bao dung, độ lượng; song nữ giới cũng có những mặt trái quá thái như si ái, kiêu mạn, chấp trước, phiền não,… trước những tình huống khó lường. Vì muốn chống và phải phòng, không để những hạn chế hoặc điều xấu xảy ra đối với người nữ xuất gia, không thể để sơ suất nhỏ mà làm hỏng một đời của người nữ xuất gia đã phát nguyện tu hành mà Bát kỉnh pháp ra đời. Bát kỉnh pháp đã đúng từ xa xưa nhưng tới nay và mãi về sau vẫn đúng vì người phụ nữ được mang thiên chức riêng do vũ trụ nhân sinh quy định.
Chế ra Bát kỉnh pháp để nữ giới được xuất gia trong bối cảnh xã hội phân chia đẳng cấp, giới tính thời đó là việc làm hết sức sáng suốt mà cắt nghĩa cho hết thì từ rất nhiều lý do, chỉ xin nêu mấy điểm:
Thứ nhất, người hiểu biết thì thấy rõ người nam xuất gia (Tăng) mà đồng ý cho người nữ xuất gia (Ni) được cùng tu hành trong đoàn thể Phật giáo với tư tưởng“Tất cả mọi người đều bình đẳng trước luật nhân quả và chân lý giải thoát; Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, trong máu cùng đỏ và cho dù là nam hay nữ, giàu sang hay nghèo hèn, địa vị cao hay thấp… tất cả đều có khả năng tu tập và giải thoát giác ngộ trong giáo pháp của Như Lai” [http://www.thuvienhoasen.org/batkinhphapdanhchotykheo.htm] đó là sự tiến bộ lắm trong xã hội Ấn Độ thời Đức Phật tại thế.
Thứ hai, không chỉ để cho người nữ xuất gia mà còn nghĩ tới việc giữ gìn an toàn cho người đã xuất gia bằng việc tạo cho họ có sự chuẩn bị về tư tưởng, tâm lý và tinh thần chịu đựng để phải vượt qua những thử thách đã biết trước thì đó là việc sâu sắc và chu đáo lắm.
Thứ ba, người nữ xuất gia mang Bát kỉnh pháp làm hành trang phòng thân, làm thước đo để dứt trừ tam độc, vô minh trọn đời nhưng không hề nặng nhọc như mang ô, dù, giáp binh. Đối với người tự giác, tự nguyện việc đó thật sự nhẹ nhàng và còn là chuẩn mực khuyến tấn người nữ giới trên đường tu, bởi vậy Bát kỉnh pháp với những người hiểu biết không phải là sự lệ thuộc, bị xem thường hay nặng nhọc mà là điều tối cần thiết.
Thứ tư, Bát kỉnh pháp chế ra tưởng dành cho Ni, nhưng nghĩ cho sâu sắc thì đó cũng là dành cho việc khuyến tấn Tăng. Bởi vì Ni tòng Tăng, Tăng có ra Tăng, Tăng có trang nghiêm giữ giới, có tinh tấn, có hiểu biết thì Ni mới học, mới nghe chứ kém hơn thì họ phục, họ nghe sao được, khác gì mang nón, mang dù mà không che được nắng mưa thì hà cớ gì phải mang. Vậy là Bát kỉnh pháp được chế ra cho Ni giới nhưng thực chất là mối ràng buộc với Tăng, là sự phản chiếu giúp Tăng phải không ngừng tu học để thật sự sáng rõ trước Ni.
Bát kỉnh pháp là phương thức phòng ngừa giúp người nữ xuất gia không đi ra ngoài chính tín bởi luôn tuân thủ khuôn phép nghiêm ngặt. Bát kỉnh pháp là phương thức phòng ngừa giúp người nữ xuất gia an toàn trong tu tập theo chính tín, khi Ni tôn trọng Bát kỉnh pháp thì Tăng phải giữ khuôn phép và không ngừng tinh tấn xứng đáng để Ni kính trọng. Trong thực tế có một số vị lợi dụng Bát kỉnh pháp bắt Ni phải lệ thuộc thì việc làm đó là không đúng chính tín đạo Phật (đó chỉ là cá biệt). Việc làm đó trong Phật giáo không ủng hộ và người tu theo Phật giáo cần nhận thức rõ để có ứng xử cho đúng. Ni tòng Tăng, câu nói nôm na nhưng là cả một trời công đức khi Tăng thật sự là chỗ dựa tin tưởng vững chãi cho Ni trên đường tu học, Tăng biết có lời nhắc nhở Ni về điểm dừng đúng lúc, khuyến tấn tăng trưởng tâm Bồ-đề kiên cố khi chướng duyên,…Trong quan hệ tương duyên gọi là Ni tòng Tăng nhưng để Ni tôn kính thì Tăng cũng phải không ngừng tinh tấn, vậy là cả Tăng và Ni đều phải tinh tấn vì thế mà Phật giáo mới là tấm gương sáng để giúp cho xã hội noi gương mà phát triển.
Trở lại câu trả lời ai đưa ra Bát kỉnh pháp? Thiết nghĩ người hiểu biết đã tự tìm được câu trả lời. Bởi người đưa ra Bát kỉnh pháp phải là người rất hiểu, rất tôn trọng và rất thương phụ nữ xuất gia mới chế ra được Bát kỉnh pháp. Và câu trả lời Bát kỉnh pháp có làm khổ phụ nữ xuất gia, có hạ thấp phụ nữ xuất gia không cũng được trả lời, bởi khi đã tự giác, tự nguyện để mang theo tín nguyện phòng thân, hộ tâm, để an toàn cho cuộc sống tu hành thì đó có gì là mệt nhọc. Điều này đã được HT.Thích Minh Thông đề cập: Rõ ràng trong thiên tánh người nữ đã không thể so sánh với người nam, mặc dù khả năng tiến bộ và thành tựu mục tiêu Niết-bàn có ngang nhau. Nhưng làm sao để người nữ luôn khắc ghi sâu vào lòng bài học tự mình uốn nắn tâm tánh, diệt trừ bản ngã mãnh liệt để thành đạt mục tiêu tối hậu là một công trình vĩ đại, là thành trì phải được bảo vệ kiên cố hơn người nam tiến tu gấp nhiều lần. Làm sao để người nữ xuất gia luôn thấy rằng việc thành lập giáo hội Tỳ-kheo-ni sở dĩ thành tựu là từ sự có mặt vững chãi trước đó khoảng 20 năm của giáo hội Tỳ-kheo (Căn bản tạp sự, q.37, Kinh Trường A-hàm) làm điểm tựa.[sđd]
Câu trả lời của các bậc cao tăng và của Hòa thượng Đệ tam Pháp chủ, dù không đi vào trực tiếp, nhưng đã gián tiếp chỉ rõ những điều căn cốt về lợi ích của Bát kỉnh pháp. Từ ý kiến của các bậc tôn túc về sự cần thiết của Bát kỉnh pháp, tôi nghe và chép lại nhưng do hiểu biết còn nông cạn nên có thể diễn đạt chưa đầy đủ. Qua điều đã nêu, mong sao trong Phật giáo mỗi vị Tăng, Ni tự nhận rõ vị thế của mình, để mỗi người làm đúng bổn phận, đoàn kết tương kính nhau để thực hiện trang nghiêm Giáo hội, làm cho nội lực Giáo hội không ngừng tăng để Phật giáo thực sự là tôn giáo điển hình như xã hội hằng kính ngưỡng, tôn vinh.