Chân dung Hòa thượng Thích Huệ Quang (1929-2009) |
Thân thế và sự nghiệp
Hòa Thượng Thích Huệ Quang, húy thượng Không hạ Hành, tự Từ Tâm, hiệu Huệ Quang, thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41; thế danh Dương Quyền. Ngài sinh ngày 10 tháng 1 năm Đinh Mão (1927) tại thôn Phước Hải, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Khánh Hòa.
Thân phụ là cụ Dương Dõng, người góc ở Gia Định, phủ Long An, tổng Long Hưng hạ, xã Phước Lợi, là một nhà Nho uyên bác, sùng kính Tam Bảo. Sinh thời, thân phụ của ngài thủ chức Kinh Thơ Lại Nê Tấn Thừa Sự, tỉnh Gia Định, hàm Bát phẩm. Hoàn cảnh Nam phần lúc bấy giờ thuộc quyền cai trị của Pháp, nên cả gia đình di tản ra Khánh Hoà, ở vùng Lục Đồn, Nha Trang.
Thân mẫu là cụ bà Huỳnh Thị Na, người ở thôn Tân Tế, phủ Ninh Hoà, Khánh Hoà. Ngài là người con thứ ba trong gia đình có 4 người con. Năm 13 tuổi ngài đậu Sơ học Yếu lược. Năm 1939, ngài tham học Cours Prémier tại trường Kim Yến Nha Trang. Sau khi thân phụ ngài qua đời, ngài luôn cận kề bên thân mẫu để chăm dưỡng mẹ già. Mỗi lần về quê thăm mẹ, ngài thường viếng chùa Thiên Bửu Thượng (phủ Ninh Hòa) và từ đó ngài xin học đạo với Thượng toạ trụ trì, huý Chơn Du, tự Chánh Thức, hiệu Nhơn Thiện và được Hoà thượng Nhơn Hoằng hướng dẫn học đạo. Sau khi Tổ Nhơn Thiện về Nha Trang, đảm nhiệm trụ trì chùa Đông Phước. Năm 1942 (Nhâm Ngọ), năm 15 tuổi, xin xuất gia tại đây và được Bổn sư cho pháp danh Không Hành. Lúc này vừa học đạo, vừa học Hán văn với Giáo sư Nguyễn Đức Trọng (tức Nguyễn Hoành) được gần 4 năm thì Cách mạng khởi nghĩa, nhằm vào tháng 8 năm 1945 (Ất Dậu).
Lúc bấy giờ, do chiến tranh hổn loạn, chùa Đông Phước bị giặc đốt, cả xóm gần chùa cũng bị đốt phá. Ngài đưa mẫu thân về Ninh Hòa để lánh nạn. Đến năm 1948 (Mậu Tý) mẹ ngài qua đời.
Năm 23 tuổi, với lòng quyết chí học đạo, nên ngài trở về lại chùa Đông phước thọ giáo với Bổn sư là Hoà Thượng Thích Minh Huệ và được phú pháp tự là Từ Tâm.
Đến năm Nhâm Thìn (1952) 25 tuổi, ngài thọ Cụ túc giới tại Giới đàn chùa Thiên Bửu, Ninh Hoà, do Hoà thượng Tăng cang Thích Trí Thắng, Viện chủ chùa Thiên Hưng, Phan Rang làm Đàn đầu truyền giới.
Từ đó ngài sớm hôm học đạo với Bổn sư là Hòa thượng Thích Minh Huệ. Đến năm 1959 Hòa thượng Thích Minh Huệ viên tịch. Năm 1960, được Bổn tự, Bổn đạo cung thỉnh ngài làm trụ trì chùa Đông Phước. Cũng năm đó (1960) được Hoà thượng Thích Bích Lâm, viện chủ tổ đình Nghĩa Phương phú pháp nhãn tạng, đặt hiệu là Huệ Quang, pháp tử đầu tiên môn phong Nghĩa Phương.
Từ năm 1962, ngoài trách nhiệm tại bổn tự, ngài còn tham gia công tác Giáo hội:
- Năm 1962 tu bổ lại chùa Đông Phước lần thứ nhất, vì bị chiến tranh năm 1945 đốt phá hư sập.
- Năm 1966: Phó Tăng trưởng Tỉnh hội Phật gíáo Cổ truyền Khánh Hoà.
- Từ năm 1968 đến năm 1975, ngài được suy cử làm Tăng trưởng Tĩnh hội Phật giáo Cổ truyền Khánh Hoà.
- Từ năm 1970 đến năm 1973 kiêm chức Tổng Thư ký Ban Đai diện Phật giáo Cổ truyền Trung phần.
- Từ năm 1972 đến năm 1975, lập Trường Tiểu học Bát Nhã, nằm ở sau chùa, để dạy dỗ con em Phật tử nghèo.
- Sau khi GHPGVN được thành lập, từ năm 1982 ngài làm Uỷ viên Hoằng pháp, Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Phú Khánh, nhiệm kỳ I (1982-1985) và NK II (1986-1989). Tiếp đó, ngài đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Hoằng pháp Ban Trị sự tỉnh hội Phật giáo Khánh Hoà, nhiệm kỳ 1991-1994 và lưu đến năm 1996.
Về phần tham dự các giới đàn
Trong suốt thời gian hành đạo Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Quang đã đảm nhận nhiều trọng trách trong các giới đàn truyền giới trên cả nước như:
- Ngày 27-9 năm Nhâm Dần (1962): Đệ tứ Tôn chứng Giới đàn chùa Long Quang, Phú Nhuận, Sài Gòn.
- Năm Ất Tỵ (1965): Đệ nhất Tôn chứng Giới đàn chùa Thiền Lâm, Quận 6, Lục Tỉnh, Sài Gòn.
- Ngày 26-2.năm Mậu Thân (1968) được suy tôn Giáo Thọ A-xà-lê, tại giới đàn chùa Phật Ấn, đường Trần Hưng Đạo, Sài Gòn.
- Ngày 15-3-Kỷ Dậu (1969), được suy tôn Yết-ma tại giới đàn chùa Nghĩa Phú, xã Hoà Thắng, huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên.
- Ngày 10-4-Canh Tuất (1970) được Tôn cử Tuyên Luật sư.
- Ngày 15.7.Canh Tuất (1980) được Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam suy tôn Hoà thượng tại Giới đàn chùa Bửu Phong, thị xã Biên Hoà.
- Thành viên Ban Chức sự các Giới đàn: Năm 1963, Ban Tổ chức Giới đàn chùa Sắc tứ Minh Tịnh, Quy Nhơn; năm 1993: Ban Chức sự Giới đàn tại chùa Long Sơn, v.v…
Với ngài, Đạo pháp và dân tộc luôn đồng hành vì thế năm 1945, thời kỳ chống Pháp, ngài tham gia trong hàng ngũ Việt Minh, 1949, bị Pháp bắt ở tù 8 tháng tại 5 e Baurau Nha Trang.
Sau ngày giải phóng đất nước thống nhất
Tham gia MTTQVN phường Phước Hải từ năm 1979 đến năm 1993, 5 nhiệm kỳ, với các chức vụ: Ủy viên, Phó Chủ tịch UBMTTQVN Phường Phước Hải.
Hội đồng Nhân dân phường Phước Hải khoá 4.
Từ năm 1989 đến năm 1996: 2 nhiệm kỳ làm thành viên MTTQVN TP.Nha Trang.
Hoà thượng đã được nhiều Giấy khen của UBMTTQVN TP.Nha Trang.
- Năm 1996, được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp Đoàn kết dân tộc của Trung ương MTTQVN.
- Tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2004), ngài được tấn phong Hoà thượng.
- Tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI (2007), ngài được suy tôn làm Thành viên Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
Về công tác biên dịch: Ngài đã dịch nghĩa Nghi thức Thiền môn chánh độ, các nghi lễ thông dụng trong ứng phó đạo tràng; viết Tiểu sử Tổ khai sơn chùa Đông Phước, biên soạn tiểu sử chùa cổ tích Đông Phước. Ngoài ra Ngài đặt câu liễn, đối, viết thư pháp cho nhiều tự viện trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh.
Thời kỳ thị tịch
Sau hơn 50 năm hành đạo ngài đã đào tạo được một đội ngũ chư tôn đức có đạo hạnh, có năng lực, tham gia công tác Phật sự của tỉnh hội cũng như đáp ứng yêu cầu các Phật sự của chùa, khi Phật tử cần đến.
Đặc biệt ở tuổi ngoài 80, ngài vẫn quyết tâm chống gậy, để xây dựng hoàn thiện ngôi phạm vũ Đông phước qua nhiều lần trùng tu. Từ năm 2007, ngài đã đại trùng tu ngôi Tam bảo Đông Phước như ngày nay.
Thuận thế vô thường, thân tứ đại mõi mòn theo nhật nguyệt, sau một thời gian lâm trọng bệnh, tuy được môn phong huynh đệ, môn đồ pháp quyến, cùng quý vị y, bác sĩ tận tình chăm sóc, chữa trị, song vì tuổi cao sức yếu ngài đã thâu thần an nhiên thị tịch, vào lúc nữa đêm giờ Tý, 1 giờ 20 ngày 10 tháng 7 năm Kỷ Sửu (2009), tại chùa Đông Phươc - nơi mà 67 năm về trước ngài đã xuất gia; trụ thế 83 năm, hạ lạp 57 năm.