Buổi chiều, sau khi rời sân bay, một người quen đón chúng tôi đưa lên lầu Tứ phương vô sự ngồi ngắm mây trời. Nghe kể rằng Tứ phương vô sự lâu (bốn phương bình yên) được xây dựng năm 1923 dưới triều vua Khải Định (1916-1925). Đây là nơi để nhà vua hóng mát, ngắm cảnh, cũng là nơi vui chơi, học tập hàng ngày của các hoàng tử và công chúa giai đoạn cuối triều Nguyễn.
Trước mắt chúng tôi, Đại nội vẫn trầm tư cửu đỉnh với nét cổ kính cung đình, nhưng người xưa đã đi về chốn hư vô. Giờ ngồi đây, giữa không gian tĩnh lặng, nhấp chén trà thơm, mỗi người thả hồn theo dòng hoài niệm. Nhưng có lẽ sự bình yên thật sự trong tâm mới là điều cần nhiếp phục, bởi nếu tâm đã an thì con người đâu cần phải rong ruổi đó đây với ý niệm để “chữa lành”:
Hỏi tâm, tâm tĩnh lặng chưa?
Hỏi lòng đã mặc nắng, mưa chuyện đời?
Hỏi trăng, hỏi gió, hỏi trời
Hỏi mây phiêu lãng, hỏi đời phù du…
Bước đi trong cõi sương mù
Hỏi đầu gậy trúc thiên thu quê nhà
Hỏi trời, hỏi đất bao la
Sao cho tâm tịnh, sao qua Niết-bàn?
(Thích Tánh Tuệ)
Rời Đại nội Huế, chúng tôi đi dạo một vòng thành phố. Ừ thì:
Dạ thưa, xứ Huế bây chừ,
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.
Hay:
Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em theo không kịp, tội lắm anh ơi…
Hơn 200 năm, trải qua bao biến thiên dâu bể, cầu Trường Tiền vắt ngang dòng Hương giang vẫn là một chứng nhân lịch sử. Đêm xuống thuyền rồng để nghe ca Huế trên sông Hương. Đây là một hình thức sinh hoạt nghệ thuật độc đáo, vừa mang tính bác học, vừa đậm chất dân gian cổ truyền của người dân cố đô. Thuyền rời bến, tiếng đàn réo rắt khảy lên những cung bậc bổng trầm, nếu điệu Bắc vui tươi, rộn ràng với Hành vân, Cổ bản, Long ngâm, Long điệp... thì điệu Nam lại trữ tình, da diết với khúc Nam ai, Nam bình… Tiếc là buổi diễn bị pha lẫn quá nhiều tạp âm: tiếng người lao xao trò chuyện, tiếng trẻ em cười giỡn, khóc la… khiến những người thật sự muốn thả hồn theo những làn điệu sông trăng đã không trọn vẹn!
![]() |
Huyền Không sơn thượng - Ảnh: Thanh LyLy |
Sáng dậy sớm, chúng tôi lên Huyền Không sơn thượng. Đây cũng là mục đích chính của chuyến đi này. Đi để xem triển lãm thư pháp của Ôn Viên Minh và Giới Đức. Nhưng đến nơi thì… triển lãm đã hết rồi! Một chút tiếc nuối, nhưng bù lại, cảnh đẹp nơi đây lại khiến lòng người ngẩn ngơ, ngơ ngẩn. Huyền Không sơn thượng ẩn hiện giữa rừng thông xanh ngắt (Vạn Tùng sơn), là một quần thể kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Do chánh điện đang trùng tu, chúng tôi sang lễ Phật ở ngôi chánh điện tạm. Nơi đây, gió lùa qua song cửa, phảng phất mùi trầm hương xứ Huế dịu nhẹ, trên đài sen, Đức Thế Tôn vẫn ngồi đó, nhìn những lữ khách, mỉm cười như nhiên…
Dạo một vòng quanh khuôn viên chùa, bên cạnh sự mộc mạc, giản đơn khiến lòng người cảm thấy nhẹ nhõm thì Huyền Không sơn thượng còn để lại dấu ấn đẹp với một vườn thư pháp, chia sẻ những lời Phật dạy, những bài thơ, những thông điệp ý nghĩa… Lúc trở ra, bắt gặp một cốc nhỏ bên bờ hồ, xung quanh cốc trồng nhiều loại hoa, tôi trộm nghĩ, có được một nơi đẹp để tĩnh tu thế này, không thành Phật chắc cũng sẽ thành tiên! Nhưng biết đâu:
… Đời đạo sĩ, con còng già bỏ tổ
Lên non cao còn sợ nước triều lên
Bụi đầy áo, phủi hoài tay cũng mỏi
Có nhiều khi ẩn dật cũng ưu phiền…
(Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Trên đường về, chúng tôi đi ngang đồi Vọng cảnh, rồi lên chùa Bửu Lâm đảnh lễ Ôn. Ôn đón chúng tôi bằng nụ cười hiền: “Đi thăm Huế hè. Huế vẫn còn nguyên đó”. Chúng tôi ngồi quanh Ôn, ăn chuối Thanh Tiêu; nghe Ôn kể chuyện mà lòng dấy lên niềm cảm phục trước những nhận định sâu sắc của Ôn về đời, về đạo. Tiếng kẻng báo hiệu đến giờ quá đường, Ôn đứng dậy: “Tụi con ở chơi, dùng cơm trưa rồi về. Thầy đi quá đường”. Nhìn bóng y vàng của Ôn khuất sau những tàng cây, tôi chợt nhận ra mình còn có phước.
![]() |
Chùa Thiên Mụ - Ảnh: Quảng Điền |
Đến thăm di tích Văn Thánh Miếu - một trong những công trình tiêu biểu trong quần thể kiến trúc cố đô Huế được xây dựng vào năm 1808 dưới thời vua Gia Long. Đây là ngôi miếu thờ Khổng Tử, cùng các vị Nhan Tử, Tăng Tử, Trí Tử, Mạnh Tử,… Khuôn viên chính có hai dãy nhà bia đối diện nhau gồm 32 tấm bia, trên đó có khắc tên, tuổi, quê quán của 293 vị tiến sĩ triều Nguyễn, bắt đầu từ khoa thi đầu tiên năm 1822 (dưới thời vua Minh Mạng) đến khoa thi cuối cùng vào năm 1919 (dưới thời vua Khải Định). Tất cả các tấm bia đều được đặt trên con rùa làm bằng đá thanh và đá cẩm thạch.
Việc lập Văn Miếu và dựng bia Tiến sĩ nhằm lưu lại và minh chứng nhắc nhở hậu thế về truyền thống tốt đẹp của dân tộc - tôn trọng việc học, đề cao nhân tài của đất nước. Rời Văn Miếu mang theo nỗi ngậm ngùi trước sự hoang tàn, xuống cấp trầm trọng của một di tích, chúng tôi qua chùa Thiên Mụ lễ Phật, vãn cảnh, thoảng nghe văng vẳng lời ru của mẹ thuở nào:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Thuyền về xuôi mái sông Hương,
Có nghe tâm sự đôi đường đắng cay.
![]() |
Tổ đình Từ Hiếu - Ảnh: Quảng Điền |
Dù ước muốn được thăm lại hết những lăng tẩm, chùa chiền, cảnh đẹp của xứ thần kinh, nhưng do thời gian có hạn, nên lực bất tòng tâm. Chúng tôi chỉ kịp ghé Quốc Học Huế, chùa Hồng Đức, rồi lướt ngang chùa Từ Hiếu, Từ Đàm, Kim Tiên, Diệu Đế…; ghé chợ Đông Ba rồi lên Tây Linh tự thăm Ni trưởng Như Minh.
Ni trưởng đãi chúng tôi một ấm trà nóng thơm ngát hương sen và… thơ. Mỗi con người, mỗi sự kiện… với Ni trưởng đều có thể hóa thành thơ. Ở tuổi hơn 80 của mình, Ni trưởng vẫn nhớ và đọc vanh vách từng bài thơ - thơ do mình sáng tác và cả những bài thơ năm xửa năm xưa của cố Ni trưởng Như Thủy.
Bỏ quên cát bụi bên đường
Thời gian dấu ấn vô thường qua mau
Tóc xanh nay đã bạc màu
Thời gian nối tiếp nhịp cầu tử sinh
Ta về khơi mạch tâm linh
Dệt vần thương, gởi đạo tình vào trong.
(NT.Như Minh)
Cho đến bây giờ, với hạnh nguyện của mình, dù sức khỏe có yếu đi, nhưng Ni trưởng vẫn đau đáu với những công tác từ thiện, giáo dục thế hệ trẻ… Tiễn chúng tôi ra về, xe lăn bánh rồi, ngoái đầu nhìn lại, qua màn mưa lất phất, tôi thấy Ni trưởng còn chống gậy đứng trước hiên chùa, vẫy tay chào. Bất giác, tôi nghe lòng nghèn nghẹn: “Có đi xa mới thấy Huế về gần lại. Sông lửng lơ nước dùng dằng không chảy… chẳng trách người đi, không phụ người về”.
Khuya, trên đường ra sân bay, xe chạy bon bon trên những cung đường tráng nhựa phẳng lì, sạch sẽ, xanh mát, sáng trưng ánh điện, mới thấy Huế vẫn giữ được nét trầm mặc vốn có nhưng cũng đã bắt kịp nhịp độ phát triển của cả nước để vươn mình trong kỷ nguyên mới. Hẹn nhé Huế, một ngày không xa, tôi sẽ lại về thăm vùng đất với những trầm tích mà khi đi để nhớ, khi ở để thương…