Một khi đã nhận ra và đoạn trừ được những tâm tánh ngu ác, xấu quấy nơi mình rồi thì nhất định tâm Phật sẽ hiện bày. Trước hết, nơi phẩm Ngu, Đức Phật dạy:
"Người ngu gần trí trăm năm Chánh pháp chẳng hiểu, chẳng thâm đạo mầu Y như muỗng múc canh sầu Ngày ngày hương vị ngọt ngào vô tâm".
(PC. 64)
Sống trong đời mà biết làm chủ cuộc sống của chính mình, biết kiềm chế thân, khẩu, ý…; biết những người bạn nào nên gần và không nên gần; biết sống một mình mà không cảm giác buồn khổ thì nhất định từng bước mình có thể xa lìa hẳn cảnh giới ngu của chính mình.
***
Làm thế nào để nhận ra được nghiệp ái dục trong sâu thẳm của lòng để đoạn lìa? Phẩm Ái dục thứ 24, những lời dạy của Đức Phật hết sức tường tận, đáng lo ngại và tự mỗi người mình có đủ phúc duyên để nhận ra, soi sáng nghiệp thức ẩn náu trong tâm tánh mình hay không? Thường thì đã là nghiệp thì rất khó thấy, vì nó bị ngăn che bởi màn vô minh mê chấp của chính mình. Các câu kinh 334, 335, 336, 337... Đức Phật đã phơi bày nghiệp ái của con người rất rõ ràng:
"Người buông lung, tham ái sanh Tràn lan như cỏ mọc nhanh vườn rừng Đời này, đời khác không dừng Như vượn tìm trái tưng bừng chuyền cây".
*"Người sống trên thế gian này Bị ái dục buộc biết ngày nào ra! Sầu khổ chồng chất sanh già Gặp mưa như cỏ tỳ la lan dần".
*"Người sống giữa chốn hồng trần Nhiếp phục ái dục khó khăn khôn cùng Như mưa sầu rụng trời đông Cành sen giọt nước khó lòng đọng lay". "Điều lành ta bảo cho hay Ái dục nhổ sạch, đức tài ai hơn! Cỏ tỳ la muốn sạch trơn Phải nhổ tận gốc lụy hờn hết vương Chớ cho ma sầu náu nương Như cỏ lau gặp môi trường tăng nhanh".
Gốc rễ của nghiệp ái dục rất sâu, nếu người tu không đoạn tận gốc rễ khi gặp duyên nó sẽ mọc lên rất nhanh! Người Phật tử tại gia dùng tinh tấn tụng kinh, niệm Phật, tu thiền hằng đêm... hễ gặp nghiệp ái chi phối sẽ bỏ đi chùa ngay; Tăng Ni xuất gia ở chùa cũng vậy, hễ gặp nghiệp ái chi phối thì cũng dừng tu ngay và nhanh đến độ mình không thể ngờ!
"Lòng ái dục chảy khắp nơi 1 Như giống cỏ dại mọc thời tràn lan Người nương cảnh, tuệ kiếm vàng Đoạn hết ái dục đa mang phù trần".
(PC. 340)"Những người trói buộc dục thân Khác nào thỏ bị sa chân lưới sầu Càng buộc ràng, càng khổ sâu Yêu thương càng trói, dài lâu đau buồn".
(PC. 342)"Những ai tư tưởng ác tà Lòng hằng vọng động, ấy nhà bi tâm Dục lạc tăng, tự trói thân Càng thêm khổ não, càng nhân sầu buồn".
(PC. 349)Trên đời này, Đức Phật dạy nghiệp ái dục là sâu nặng nhất; cho nên có rất nhiều người đã thoát vượt được rồi thì không bao giờ quay lại, cũng không ít người dù đã vượt qua, đã rất cố gắng... nhưng rồi một lúc nào đó cũng lại bị quay ngược dòng rất bi thương. Hai câu 344, 345 đã phơi bày:
"Người đã lìa dục, nương về Xuất gia vui chốn sơn khê lâm tuyền Nay lại tái tục trần duyên Hãy xem người đó, đảo điên chăng là! Đường trần đã sớm bước ra Nay tự trói buộc, vào nhà trái oan".
*"Người có trí, tỉnh mộng vàng Bằng cây, bằng sắt buộc ràng dây gai Chưa phải kiên cố sắc, tài Vợ con luyến ái lòng này mới lo. Tài sản tham chấp bo bo Mới thật trói buộc, khó dò thoát ra!"
Sở dĩ ta bị trói buộc vì ta đi ngược dòng "tái tục trần duyên", luyến ái vợ con, tham chấp tài sản. Nếu ta không "tái tục trần duyên", không luyến ái, không tham chấp tài sản, vợ con... thì nhất định ta không bị sự trói buộc của địa ngục tâm thức.
Các câu kinh 354, 355, 356... Đức Phật đã chỉ cho chúng ta con đường ra khỏi sự trói buộc khổ đau:
"Bố thí, pháp thí, đại từ Trong các chất vị, pháp thì thượng tôn Các lạc, pháp hỷ là hơn Trừ được ái dục, thoát nguồn khổ đau".
Sự giàu sang tài sản nó dễ làm cho mù mờ tâm thức sáng suốt của con người:
"Giàu sang làm hại kẻ ngu Không sang bờ giác, mây mù chấp nê Người ngu tăm tối đi về Tài dục che lấp ủ ê tâm người".
Cho nên, người nào xa lìa được sự say đắm tham dục thì nhất định người đó thoát khổ:
"Cỏ làm hại ruộng vườn đời Tham dục say đắm hại người biết bao! Thế nhân thức tỉnh dồi trau Lìa tham được phước, sang giàu thiện duyên".
1. Thấy rõ con đường mình đi và sự nỗ lực hành trì nơi tự thân:
Sau khi thấy rõ "tâm ngu, tâm ác, phẫn nộ, cấu uế và sự trói buộc của ái dục" nhiều đời nhiều kiếp rồi, chúng ta cần dõng mãnh giữ định hướng đi tới bằng sự hành trì của tự thân. Bởi đạo không phải là sự hiểu biết hay lời nói suông mà là "định – huệ" song hành. Phẩm Song Yếu, Đức Phật đã dạy rõ nơi câu 20:
"Kệ kinh đọc tụng công phu Nghiệm suy ý nghĩa, tập tu hành trì Sáng chiều đoạn tham sân si Thân tâm thanh tịnh, giữ y đạo hiền Xa lìa thế tục trần duyên Đời này, đời khác hạnh thiền Sa môn".
Một khi đã có định hướng rồi thì phải thắng buông lung (lười biếng) tinh tấn dõng mãnh đi tới, với các câu 21, 22, 23:
"Không buông lung, hết tử sanh Mãi buông lung… cửa chết dành người mê! Người tinh tấn, không chết hề! Kẻ biếng nhác như ma về cõi ma!" "Người trí rõ biết thiền na Nỗ lực tinh tấn ba la mật lòng Không buông lung, tánh tịnh trong An vui cõi thánh, sắc không chẳng màng!"
*"Dõng mãnh, kiên nhẫn tâm vàng Thiền định, giải thoát đạo tràng tịnh tu Người trí tinh tấn công phu Niết bàn chứng nhập, vô ưu quả mầu!"
Đồng thời, Đức Phật cũng xác lập con đường và pháp hành vững bền cho thầy Tỳ kheo đi đến nơi, đến chốn:
"Tỳ kheo tự thắng vô minh Thắng lười biếng, thắng hữu tình buông lung Phật khen như ngọn lửa hồng Đốt thiêu phiền não 2 thoát vòng tử sinh!"
(PC. 31)"Tỳ kheo tự thắng vô minh Thắng lười biếng, thắng hữu tình buông lung Phật khen họ gần Niết bàn Nhất định không bị buộc ràng dễ duôi".
(PC. 32)Luôn tỉnh giác trước dòng đời, khẳng định vị trí từ bùn nhơ vươn lên, xác lập phẩm hạnh tu tập và công hạnh độ sanh:
"Từ đống bùn nhơ trầm hôn Hoa sen chớm nở tỏa thơm giữa đời Thanh khiết trong sáng tâm người Ta bà bụi bặm, rạng ngời chân nhân Đệ tử chánh giác pháp thân Trí tuệ soi chiếu thế trần độ sanh".
(PC. 58 & 59)
2. Luôn vượt lên chính mình, thắng mọi thử thách ngoại cảnh an trú, tịch tịnh nội tâm:
Càng đi sâu vào kinh, chúng ta càng thương kính quý mến đấng Đại đạo sư, Ngài là bậc Thế Tôn, là đấng cha lành; Ngài như luôn cầm tay mình, từng bước dìu đứa con thân ra khỏi trần nhơ:
"Không vì thiên hạ ngọt bùi Cũng không vị nể dù người thân sơ Người trí không hành động nhơ Không cầu con cái, hay nhờ quyền uy" Cầu giàu có, cầu vương phi Đem bất chánh, đổi tiện nghi cho mình Được vậy mới gọi hiền minh Đạo đức trí tuệ viên thành đạo tâm. (PC. 84) Hành giả tinh tấn hành thiền Giác chi 3 bảy đóa sen thiêng thơm lành Phiền não, nhiễm ái, vô sanh Niết bàn diệu thể trú thành phạm âm. (PC. 89)Chẳng những luôn kiên trì con đường phạm hạnh mà còn đối chiếu cân phân thực, ảo của phạm hạnh:
Thắng chính mình, mới thượng nhân Hơn thắng kẻ khác ngàn lần là hơn Tự mình tỏ rõ thiện chơn Chế ngự tham dục thiên sơn cao vời!
(PC. câu 104)Trăm tuổi trí tuệ không sanh Không tu thiền, thiếu phúc lành thiện duyên Chẳng bằng một ngày tu thiền Trí tuệ tỏ rạng đức hiền sáng trong.
Trăm năm không ngộ đạo vàng Vô vi tịch tịnh mơ màng có không Chẳng bằng một ngày sáng lòng Vô vi tịch tịnh sắc không thư nhàn.
(PC. 114)Trăm năm sống giữa trần gian Không thấy pháp tối thượng quang nhiệm mầu Chẳng bằng một ngày ngộ sâu Thấy pháp tối thượng vô cầu vô tâm.
(PC. 115)Đặc biệt nhất là sau khi khám phá, nhận diện được "bản lai diện mục" của chính mình như Đức Phật đã từng khai thị:
Vòng luân hồi mãi xuống lên Tìm mãi không gặp tuổi tên chủ nhà Khổ thay kiếp sống phù hoa Sanh già bệnh chết... bóng tà huy bay Kẻ làm nhà, ngươi là ai Gặp rồi sao lại khứ lai vô tình Ngươi về hội nhập tâm linh Không làm nhà nữa, vô hình vô tâm Rui mè, kèo cột bặt tăm Niết bàn vô thượng thậm thâm trú rồi Dục vọng mê nhiễm buông trôi Lậu hoặc dứt sạch, đứng ngồi tịnh an 4
(PC. 153 & 154)Dù Phật tử tại gia hay Tăng Ni xuất gia, chúng ta đều có niềm tin lớn là có phúc duyên gặp được giáo pháp Đức Phật, thọ hưởng ánh sáng hào quang Đức Phật soi chiếu, tỏ rõ "bản lai diện mục" tự thân rồi nhất định không bỏ phí thời gian nữa, nhất là giai đoạn tuổi thanh xuân... mà luôn tự tỉnh giác trước dòng thời gian để không phải ăn năn, hối tiếc khi thời gian qua mau và vô thường chợt đến:
Thanh niên cường tráng hiên ngang Không kiếm tài sản kết tràng hoa thiêng Tu hành lúc trẻ không siêng Khi già chẳng khác cò hiền bên sông Sớm tối lặn lội đục trong Chết mòn khô héo kiếm không được mồi.
(PC. 155)Thanh niên cường tráng trẻ vui Không kiếm tài sản, tụ đời tương lai Trẻ không tích lũy đức tài Đến già nằm xuống trong ngoài trống không Thân người đau yếu, khòm cong Như cây cung gãy, như vòng hoa khô!
(PC. 156)
3. Hãy sống trọn vẹn với "mùa xuân tâm linh" của tự lòng:
Giá trị thực trong cuộc sống chính là giá trị sống, ông bà ta từng nói "Hùm chết để da, người ta chết để tiếng" rất có ý nghĩa ở đời. Khi sống mình phải biết dựng lập cuộc sống như thế nào để mọi người chung quanh thương mến và khi mình chết thì mọi người luyến tiếc, trân trọng, tôn kính. Đức Phật dạy người tu phải biết tự phòng hộ các căn, khi sống không để thân khẩu ý làm việc xấu, quấy, ác thì khi chết đi khỏi phải mang quả báo không tốt và còn lưu lại tiếng xấu trong đời.
Trong phẩm Bà La Môn, các câu kinh 412, 413, 414, 415 Đức Phật có dạy:
"Thế gian này, cảnh ảo huyền Thiện pháp, ác pháp, ưu phiền... lắng trong Ngày ngày thuần tánh, thanh lòng Bà la môn xứng danh dòng Phạm thiên". "Dục vọng ngưng nẻo trần duyên Như trăng mát dịu, lâm tuyền long lanh Sống đời trí sáng tinh anh Bà la môn gọi thiện sanh muôn đời". "Gồ ghề lầy lội 5 chơi vơi Vượt khỏi biển khổ luân hồi mê si Thiền định, lắng dục, dứt nghi Không chấp, không đắm tự ti quả mầu Niết bàn tịch tịnh thẳm sâu Bà la môn thực thượng cầu nhơn thiên".
*"Hiện đời lìa bỏ dục triền Xuất gia tích hạnh thánh hiền Tăng nhân Không phát sinh lại nghiệp trần Bà la môn quả, xuất thần Sa môn".
Trong phẩm Tỳ kheo, Đức Phật đã dẫn dắt thầy Tỳ kheo nói riêng, người tu nói chung, biết sống kiểm soát, nhiếp phục các căn của chính mình; tức là người con Phật muốn tu, thích tu thì phải biết sống cho mình một cách trọn vẹn:
"Mắt tai mũi lưỡi... các căn Ai chế phục được, thức thần thong dong Thân khẩu tâm ý sạch trong Lành thay! Giải thoát khỏi vòng khổ đau!"
(PC. 360 & 361)"Tỳ kheo tri túc, không lơi Thường nhật tỉnh giác, thời thời siêng năng Đến đi gìn giữ các căn Chư thiên khen ngợi, người hằng kính yêu".
(PC. 366)"Tỳ kheo múc nước thuyền này Nước hết thuyền nhẹ, công dày quả cao Tham dục, sân nhuế... thoát mau Niết bàn quả vị, đạo mầu tự thân".
(PC. 369)"Biết tự cảnh sách lòng trong Quay về phản tỉnh, hộ phòng tánh tu Chánh niệm vắng lặng điều nhu Tỳ kheo an lạc, vô ưu quả lành".
(PC. 379)Tỳ kheo tâm tánh nở hoa Thành tín giáo pháp Phật đà hành tri Cảnh giới an lạc từ bi Vô thường chứng ngộ, lưu ly nhiệm mầu.
(PC. 381)Tỳ kheo tuổi nhỏ tín sâu Siêng tu giáo pháp thượng cầu Phật gia Ánh sáng soi chiếu Tăng già Như trăng thanh thoát đẹp nhà từ bi.
(PC. 382)Từ phẩm Tỳ kheo đến phẩm A la hán, rõ ràng giáo pháp Đức Phật không ru ngủ, mê hoặc con người mà là chỉ rõ, đánh thức sự trì trệ, u mê nơi con người. Rất tình cờ chúng ta có thể cũng gặp gỡ nơi Thiền sư Viên Học (1073 – 1136) đời Lý, sự tỉnh thức:
"Nghe chuông sớm tối tĩnh lòng Thần lười dứt sạch, thần thông hiển bày".
Và qua các câu kinh từ 93 đến 99 chúng ta thấy rõ Đức Phật giáo huấn các thầy Tỳ kheo nói riêng, người tu nói chung hãy tự nâng cao, sàng lọc tâm thức của chính mình lên để từng bước đi vào Tứ Thánh quả, trở thành vị A la hán trong Chánh pháp.
A la hán sạch nhiễm ô Tứ sự 6 nương tạm, tội đồ lìa xa Giải thoát, vô tướng, không hoa Như chim tự tại, trú tòa tịnh không.
*A la hán đóa sen hồng Tuấn mã điều phục, nhiếp lòng dặm xa Ngã mạn phiền não an hòa Trời người kính mộ đẹp nhà từ bi.
*A la hán hết sân si Tâm như cõi đất, lưu ly cửa thiền Ao sâu bùn lắng sạch phiền Nghiệp trần nhẹ phủi, hết duyên luân hồi.
*A la hán ý thường tươi Lời nói, hành động thời thời lặng yên Chánh trí giải thoát tịch thiền Thân tâm an tịnh, đức hiền tỏa hương.
*A la hán tự sáng gương Tự lòng kiên định, tánh thường hiển khai Nhân quả báo ứng trong ngoài Vô Thượng Sĩ ngự, Như Lai tịch nhàn.
*Dù núi rừng, dù xóm làng Đất bằng, gò trũng, đồng hoang, thị thành A la hán trú an lành Cảnh giới hạnh phúc cao thanh đạo hiền. Người đời chẳng thích lâm tuyền A la hán lại vui miền tịch liêu Dục lạc người đời mến yêu A la hán đẹp bên triều non xanh.
Sống trong đời, ai nhận ra và nhiếp phục được mọi phiền não, lắng sạch mọi ưu phiền của các căn khi đối diện với sáu trần, tịnh hóa được ba nghiệp thân khẩu ý... người đó sẽ trở thành vị Tỳ kheo, vị A la hán thực sự thân chứng trong Chánh pháp, an trú vĩnh viễn trong mùa xuân tâm linh của chính mình.
Nhân mùa xuân Tân Mão – 2011 năm "Con Mèo" đã về với cuộc sống con người trong thời khắc thiêng liêng, năm đầu của thập niên thứ 2 của thiên niên kỷ mới (thế kỷ 21), thành tâm kính chúc chư tôn đức, pháp hữu huynh đệ và Phật tử gần xa một năm mới an lạc, kiết tường như ý... luôn được nhiều thắng duyên trong Chánh pháp – tương hội mùa xuân tâm linh nơi tự thân.
Phương Thảo am, Xuân Tân Mão – 2011