Bài thơ bằng chữ Nôm của Hòa thượng Thích Đạt Thanh

Bài thơ bằng chữ Nôm của Hòa thượng Thích Đạt Thanh
0:00 / 0:00
0:00
GNO - Như đã trình bày trong phần III "Góp phần tìm hiểu thủ bản Kim Vân Kiều tân truyện và các tác phẩm của Hòa thượng Thích Đạt Thanh", quyển Kim Vân Kiều tân truyện hiện tàng bản tại chùa Long Quang có 6 phần. Ngoài phần chính gồm 102 trang, còn có 5 phần phụ khác.

Cũng trong phần III, tôi đã giới thiệu bài thơ chữ Hán có lẽ do Hòa thượng Đạt Thanh gởi cho các nhà hoạt động yêu nước. Nay, tôi xin giới thiệu bài thơ bằng chữ Nôm (có khoảng hơn 500 chữ) có tựa đề là Chánh luận ký tức bài viết luận bàn về chính trị mà chủ yếu là nói đến tình cảnh của người yêu nước bị lao tù. Cuối bài có ghi tên tác giả là Thăng (Thăng ký). Có lẽ đây là bí danh hay tên đọc trại tên Thanh (Đạt Thanh) của Hòa thượng.

Tuy nói là chữ Nôm nhưng trong bài có hai nơi (bốn câu) được viết bằng Hán văn và cuối bài có bài thơ chữ Hán thất ngôn bát cú. Rất tiếc, chữ Hán có nhiều chữ viết dạng chữ thảo và có vài chữ ở góc tờ giấy bị mất nên không thể đoán ra chữ. Những chữ bị mất hay những chữ không đọc được, tôi để dấu chấm hỏi (?). Bài thơ chữ Hán ở cuối bài do có nhiều chữ đọc không ra nhưng vì trân trọng văn hóa của tiền nhân nên tôi chụp và in nguyên bản ở đây, rất mong chư vị thức giả xa gần hữu tâm chỉ giáo. Trân trọng. Sau đây là phần phiên âm bài thơ chữ Nôm (tất cả chú thích là của người viết thêm vào):

Mực Tàu mài nghiên Việt

Giấy Bắc viết thơ Nam.

Án ba năm chẳng xử đã cam

Thời vận khiến phải mang tám nạn1.

Nỗi oan ức anh em cũng hẳn

Sự vô can cô bác đều hay.

Chuyện khi không mắc chốn đắng cay

Cuộc giữa đường mà mang cho trót.

Nằm nhớ đến lòng dường muối xát

Đứng tưởng rằng dạ tựa kim châm.

Đêm năm canh không ngát châu trầm

Ngày sáu khắc khôn ngăn ngọc lệ.

Ba năm chẳng náu nương Dũ lý

Nhờ lượng thần phù hộ bình an.

Xưa tuy là tương luyến dặm đường

Nay cũng chịu (?) thanh nhàn thân thể.

Buồn nhớ tới biết đâu mà kể

Cảm thương vì vợ yếu con thơ.

Vượn lìa cành lẻ bạn bơ vơ

Ngựa xa chỗ lạc bầy chíu chít.

Vọng gia nội mãn triều hồi ngát

Hoài thê nhi nhật dĩ trầm Tây2.

Đường chẳng xa nhưng lại xa thầy

Nẻo gần đó chồng không gần vợ.

Miệng chắt lưỡi than rồi lại thở

Tay gác đầu nghĩ tới đâu đâu.

....…. (mất bốn chữ) chẳng bao lâu

Thương con vợ công tình khổ nhục.

Dế ngâm sầu ú ớ (? ? ? ?)

Ve giục ..... (mất mấy chữ).

Tôi mong cho mãn hạn tới kỳ

Về cố lý viếng thăm cô bác.

Thương anh chị tấm lòng .....(mất hai chữ)

Xót vợ con tấc dạ héo mòn.

May ra còn ở lại Sài Gòn

Phải vô phúc đày đi xứ khác.

Bấy lời về lạy cô với bác

Gởi vợ con dạy dỗ hơn thua.

Tôi cũng như sãi ở trong chùa

Bốn mùa chịu lạnh tanh tám tiết3.

Lao khổ ấy trời cao đã biết

Hoạn họa này đất rộng cũng hay.

Thương kim bằng nên mới ra tay

Cứu ngọc hữu thân lâm Dũ lý4 (thủ bản thiếu chữ lý).

Nộ bất lường hữu mưu vô trí

Dĩ cam tâm mạc oán hồ thiên5.

Thời vận xui nên chẳng ưu phiền

Số hệ khiến cũng không ta trách (dư chữ này) thán.

Mang hoạn nạn tại anh em bạn

Chịu lao tù vì bởi cố tri.

Dù cho ai mạnh quá Trương Phi

Không phép cải luật trong nhà nước.

Sự phải trái tỏ tường sau trước

Cho anh em lớn nhỏ đều hay.

Gởi vợ con nương náu ít ngày

Khi mưa nắng sớm thăm tối viếng.

Nhớ là nhớ những quê những cảnh

Thương là thương chỗ ngủ chỗ nằm.

Con còn thơ tuổi chẳng bao lăm

Vợ thời yếu nghĩ càng thảm thiết.

Chồng nhớ vợ vợ thì chẳng biết

Cha thương con con cũng không hay.

Gởi thơ nhạn nhạn lại cao bay

Nhắn tin cá cá về sông vịnh6.

Ít hàng mưa lạnh sau trước cùng hay

Thơ gởi về rày mà thăm anh chị.

Xin đừng rơi lệ mựa7 phải thở than

Tỏ hết lời vàng thơ đây xin gởi.

Thảo đường bế vãng tự cư kỳ

Vân phong cảnh địa họa nhất thi

Toàn ẩn cơ thiên vô nhân thí

Bả đạo hưng tình thế vị tri

Mịch tận ? ? thường phi thị

Thoái khoan truyền thủ chí bất đi

? dân thân ??? trái

Hà thời định đắc giải tâm bi

Chánh luận ký

Thăng ký

Tạm dịch ý bài thơ chữ Hán:

Đóng cửa am tranh, không giao tiếp ai, sống đơn độc một mình.

Trong khung cảnh gió thổi mây bay, viết lên một bài thơ.

Cơ trời che kín hoàn toàn, không ai hay biết.

Đem đạo sưởi ấm tình người nhưng thế nhân không ai biết.

Tìm khắp ? ? thường chẳng phải.

Lui một bước, truyền và giữ vững ý chí, không lay động.

?????

Không biết khi nào mới có thể giải tỏa được lòng buồn này?

Bài viết luận bàn về chính trị

Ký tên: Thăng.

Phương Ngoại am, ngày 26-2-2023

---------------------------------

1 Tám nạn : Thuật ngữ Phật giáo, chỉ cho tám hoàn cảnh bất hạnh: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, sống ở cõi trời Trường thọ, sinh vào vùng biên địa, sinh ra bị tàn tật, có những kiến giải sai lệch, sinh ra thời không có Phật.

2 Vọng gia nội mãn triều hồi ngát, Hoài thê nhi nhật dĩ trầm Tây. Hai câu này viết theo chữ Hán, có nghĩa: Luôn mong cho gia đạo được bình an, suốt ngày lòng chỉ nhớ đến vợ con.

3Tám tiết: Tám ngày quan trọng trong năm về mặt diễn biến khí hậu: Lập xuân, Xuân phân, Lập hạ, Hạ chí, Lập thu, Thu phân, Lập đông, Đông chí. Ở đây có nghĩa quanh năm.

4Dũ lý: Nơi Chu Văn Vương (1154-1046 TTL) bị Trụ vương giam cầm (xem báo Giác Ngộ số 1190, trang 13). Ở đây có nghĩa lao tù. Câu “Cứu ngọc hữu thân lâm Dũ lý” có nghĩa : Vì cứu bạn tri âm mà phải bị lao tù.

5 Hai câu này cũng viết theo chữ Hán, có nghĩa: Giận vì mình không biết được rằng bản thân tuy có mưu lược nhưng không có trí tuệ nên bây giờ phải lâm vào hoàn cảnh này thì phải cam lòng chịu đựng chứ không thể oán trách trời đất.

6Lấy ý từ những câu hò Bình Trị Thiên. Nguyên văn câu hò: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc; Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi; Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời; Kẻo mai kia con cá về sông vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh”.

7 Mựa là từ cổ, phủ định từ: không, chẳng. “Mựa phải thở than” có nghĩa là không phải thở than.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.