GN - Ở xóm chài Sài Gòn, thỉnh thoảng người ta vẫn bắt gặp vài chiếc ghe nhỏ tụm lại với nhau dưới chân cầu. Phận đời ở đây lênh đênh theo con nước đến 3-4 đời người. Trong số họ ít ai được học hành đến nơi đến chốn, cứ bám vào dòng sông, con lưới tìm cái ăn, cái mặc… cả gia đình phụ thuộc vào sự nặng nhẹ của từng mẻ lưới...
Những gia đình bám trụ ở xóm chài
Chiều dần xuống, xóm chài duy nhất tại TP.HCM, nằm lọt thỏm dưới chân cầu Bình Lợi (P.13, Q.Bình Thạnh) với vài chiếc thuyền nhỏ rách nát, nằm cạnh nhau như cố xua đi vẻ côi cút. Những chiếc thuyền che chở lúc nắng mưa, gió giông, những tay lưới đã cũ mòn theo con nước, năm tháng… gần như là tài sản quý nhất của những người dân nơi xóm chài. Thế hệ này rồi đến thế hệ khác nối tiếp sống nghiệp lênh đênh trên những con thuyền chòng chành ấy. Giờ đây, họ có thêm nỗi lo canh cánh, có thể xóm chài bị xóa sổ lúc nào không hay.
Vốn liếng cả đời của anh Ái chỉ là kinh nghiệm dày dạn trên sông
Anh Nguyễn Ngọc Ái (sinh năm 1979, con trai cụ Liêm) nối nghiệp cha từ chiếc thuyền nhỏ rách nát, con lưới đã sờn mà cha để lại. Các con của anh lần lượt ra đời, rồi cũng gắn với nghiệp chài lưới dưới chân cầu Bình Lợi. Như mọi ngày, khi hoàng hôn tráng ráng chiều vàng vọt trên sông là lúc cha con anh Ái chuẩn bị cho đêm mưu sinh đầy vất vả. Vốn liếng cả đời của anh chỉ là kinh nghiệm dày dạn trên sông với tay lưới, cái chài và sự may rủi của nghiệp sông nước.
Cuộc mưu sinh của dân vạn chài phụ thuộc hoàn toàn vào con nước, nước ròng sớm thì nghỉ sớm, nước lên muộn thì phải thức trắng đêm. “Hàng ngày, có 2 đợt nước lên xuống, một đợt vào buổi trưa muộn, đợt thứ 2 vào khoảng hơn 21 giờ tối. Chúng tôi phải canh giờ nước xuống là bắt đầu chèo thuyền đi đánh cá. Thường thì buổi đêm, nước ròng đánh lưới sẽ được cá nhiều hơn nhưng thời gian ngắn nên phải tận dụng mới kiếm được chút ít, chứ để nước lên cao thì xem như về tay trắng. Mấy chục năm nay, chúng tôi đã quen với việc chạy đua theo con nước mưu sinh”, anh Ái cười nói.
Với kinh nghiệm của mình, ở mỗi khúc sông, người đánh cá sẽ lựa chọn đồ nghề khác nhau. Chỗ nước cạn thì giăng lưới đủ cỡ, chờ khoảng dăm ba tiếng mới tới gỡ cá bỏ vào khoang. Trong lúc chờ đợi, họ tận dụng thời gian, dùng chài ra đoạn sâu hơn quăng vài mẻ… Việc quăng chài không phải ai cũng làm được vì rất khó, đòi hỏi kỹ thuật quăng, nếu không chài sẽ không bung ra đều. Ban đầu, dân vạn chài ở đây chân tay cũng vụng về, lóng ngóng. Lâu dần, chài lớn hay nhỏ họ đều quăng thành thạo.
Nhiều lần quăng xong, chài mắc phải cọc sắt, gỗ hay rác, nằm sâu dưới bùn, họ lại phải trầm mình lặn xuống gỡ ra. Mỗi lần như vậy, họ không thu được gì, đồ nghề bị rách phải sắm lại cái mới. Không chỉ vậy, có những lần chiếc ghe nhỏ, cũ nát bị chìm, bao nhiêu tôm cá trôi đi hết. Họ lại trầm mình vớt thuyền lên, xem như hôm ấy vẫn còn may mắn tìm lại được “gia tài” nhỏ.
Hiện nay, nước trên sông bị ô nhiễm, cá tôm ngày một cạn kiệt nên việc đánh bắt khó khăn, thu nhập chẳng được là bao. “Khoảng hơn chục năm trước, cá tôm trên đoạn sông này nhiều lắm. Chỉ cần vài ba tay lưới, quăng mấy lượt chài là đầy khoang thuyền, mà lại toàn cá to, bán được giá.
Vì thế, mấy chục hộ dân vạn chài sống ở đây, có lúc cảm nhận được hạnh phúc của mình với cái nghiệp lênh đênh này. Nhưng, cuộc sống bây giờ khổ cực hơn, dân vạn chài thức trắng đêm cũng chỉ kiếm đủ tiền cơm áo qua ngày. Không bám trụ được với nghề, nhiều gia đình đã phải bỏ lên bờ kiếm việc khác mưu sinh nên nay chỉ còn gần chục hộ vạn chài bám trụ”, anh Ái buồn bã nói.
Nguồn cá tự nhiên đã cạn kiệt, những người đánh cá trong xóm chài sống được là nhờ vào những con cá phóng sinh “vô tình” mắc vào lưới. Dân vạn chài cũng quan niệm bắt những con cá phóng sinh là “mắc tội” nhưng họ cũng đành nhắm mắt vì miếng cơm manh áo hàng ngày.
Phận đời lênh đênh…
Những chiếc thuyền mà họ ở, là mái nhà. Chúng đều đã cũ, chắp vá nhiều lần. Thường thì họ dùng vài tấm tôn dựng thành mái, cao hơn 1m, lấy tấm bạt bao quanh che mưa, chắn nắng. Suốt mấy chục năm qua, xóm vạn chài này dường như sống biệt lập với thế giới nhộn nhịp của Sài thành. Mọi sinh hoạt đều quanh quẩn trên chiếc thuyền nhỏ, gia đình anh Ái có 2 thuyền, một dành để 4 người ngủ, cái còn lại thì nấu nướng, để đồ đạc.
Cụ Ngô Thị Liêm (83 tuổi, mẹ anh Ái) thở dài nói: “Thuyền cũ quá nên không biết bao nhiêu lần nước vào, chìm nghỉm. Tôi phải canh mỗi tiếng tát nước một lần. Mấy chục năm qua, chưa đêm nào cả nhà được ngủ ngon vì phải tỉnh dậy tát nước vài lần”.
Dân vạn chài đã quá quen với việc chật chội, thiếu thốn đủ bề. Đến những thứ thiết yếu như điện, nước sạch còn quá xa xỉ với họ. Hàng ngày, chờ nước sông lên cao, trong hơn, họ múc nước lên để tắm giặt. Nước nấu cơm được ưu tiên mua bình 20 lít, dùng tiết kiệm. Còn điện thì càng xa vời hơn, nhà nào cũng có đèn pin hay cây đèn dầu, chỉ thắp khi cần thiết, đêm đen với họ là bình thường.
“Mấy hộ dân trên bờ thấy chúng tôi khổ quá nên cho nối ống nước sạch ra dùng, rồi trả tiền nhưng tốn kém quá, chúng tôi đành phải tắm giặt nước sông, rồi dội lại một ít nước sạch. Họ cũng cho nối điện. Song, mẹ tôi từ khi sinh ra chưa bao giờ được dùng điện nên bảo không quen, sợ bị điện giật nên thôi”, anh Ái chia sẻ.
Đa phần những người đàn ông ở đây đều mắc bệnh đau khớp do ngâm mình lâu dưới nước, chưa kể những bệnh ngoài da, hô hấp. Nỗi đau thân xác ấy chưa bằng nỗi đau tinh thần mà người dân nơi xóm chài phải gánh chịu. Nhiều đứa trẻ lớn lên được vài ba tuổi thì qua đời vì bệnh tật, để lại trong lòng người dân xóm chài nỗi lo lắng, sợ hãi. Những đứa trẻ còn sống thì canh cánh nỗi lo về tương lai mù mịt.
Cụ Liêm là người lớn tuổi nhất xóm vạn chài với 75 năm lênh đênh trên sông nước
Cụ Liêm là người lớn tuổi nhất xóm vạn chài với 75 năm lênh đênh trên sông nước. 7 tuổi, ba mẹ mất, cụ phải đi ở đợ cho nhà người ta rồi được nhận làm con nuôi, hành nghề đan lưới, đánh cá. Vợ chồng cụ sinh được 7 người con nhưng 4 người đã qua đời vì nghèo đói, bệnh tật từ
“Lúc đó, tôi nghĩ trời sinh voi, trời lại sinh cỏ nên chỉ cần lo cho chúng no bụng là được, còn chuyện học hành thì không cần. Khi còn nhỏ, chúng bò quanh quẩn ở thuyền, đến khi đi được thì chạy lên bờ đê chơi. Sống trên thuyền, đêm xuống lạnh co ro, dưới nước bốc mùi hôi lên thuyền, thế mà mãi rồi thành quen. Nhưng, tôi đâu ngờ, ở đây là nơi phát sinh nhiều bệnh tật khiến bọn nhỏ sớm ‘ra đi’ như vậy”, anh Ái ngậm ngùi nói. |
nhỏ. Bằng nghề chài lưới, vợ chồng cụ nuôi 3 người còn lại khôn lớn thành gia lập thất. Sau khi người chồng qua đời, cụ ở cùng anh Ái cho đến nay. Anh Ái cũng lập gia đình rồi sinh được 3 người con nhưng 2 đứa đã ra đi vì bệnh tật. Lần lượt tiễn đưa các con, lòng anh đau như cắt.
Ngay sát thuyền nhà anh Ái là thuyền của gia đình bà Hinh. Vợ chồng bà có 5 người con thì 2 đã qua đời vì những cơn gió độc trên sông. Sống trên ghe không đủ ấm, nước sông bị ô nhiễm nên bệnh ban trắng khiến những đứa trẻ ở đây lần lượt mắc phải, rồi qua đời.
Tương lai của những đứa trẻ còn lại ở xóm vạn chài cũng chẳng tươi sáng hơn. Từ nhỏ, chúng đã quen với con nước, mái chèo chòng chành trên sông, biết bơi trước khi biết mặt chữ. Bùn đất, cá tôm nhường chỗ cho những món đồ chơi của tuổi thơ.
“Con trai tôi năm nay 13 tuổi nhưng theo cha đi đánh cá đã 8 năm rồi. Nó học đến lớp 2 rồi nghỉ, ở nhà chèo ghe cho ba thả lưới. Nhỏ thó, chân tay còn yếu, thế mà nó quăng chài, thả lưới thoăn thoắt. Vợ chồng tôi khuyên dữ lắm, nó mới bỏ nghề lên bờ xin làm thợ hồ. Mong sao tương lai nó sẽ kiếm đủ tiền, cất ngôi nhà nhỏ trên bờ mà sống”, người cha nói với ánh mắt xa xăm nhìn về phía dòng sông nước đang lên.
Dù vất vả, luôn bị cái nghèo đeo bám nhưng dân vạn chài luôn sẵn sàng chia sẻ với đời theo cách riêng. Họ cứu người đuối nước, vớt xác người xấu số trên sông, đưa đò tiễn biệt một kiếp người. Đêm xuống, dân vạn chài lại í ới nhau, lênh đênh mưu sinh. Họ luôn mơ về một ngày nào đó, con cháu mình được biết đến con chữ, được lên bờ để đổi đời…