GN - Tổ Tâm Khoan (1874-1937) là bổn sư truyền giới pháp cho hai vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, đó là vua Khải Định và vua Bảo Đại.
Ngài sinh ngày 11-9-Giáp Tuất (1874) trong một gia đình họ Phạm tín kính Tam bảo ở thôn Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Đông Xương (nay là làng Trung Kiên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong), tỉnh Quảng Trị, tỉnh kề cận với kinh đô. Thuở ấu thời, thế danh của ngài là Phạm Văn Phổ (Xuân Khiêm).
Chân dung Tổ sư cuối cùng của triều Nguyễn
Địa danh Trung Kiên ở Quảng Trị được biết đến là nơi có nhiều người xuất gia và trở thành các bậc danh tăng trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Có thể nêu ở đây chư vị Tổ sư cao tăng như Thiền sư Đạo Minh Phổ Tịnh, Thiền sư Tánh Thiên Nhất Định, Thiền sư Thanh Minh Tâm Tịnh… là những bậc tiền nhân của Quốc sư Tâm Khoan. Sau ngài, còn có nhiều vị cao tăng thạc đức, đơn cử ở đây như cố Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Thủ… nên hậu thế đã tôn xưng “Trung Kiên thế thế xuất hùng Tăng” (làng Trung Kiên từ đời này sang đời khác là nơi xuất phát nhiều vị hùng Tăng).
Quốc sư là bậc đồng niên xuất gia với bổn sư là Tổ Hải Thuận (tự Lương Duyên, hiệu Diệu Giác) ở tổ đình Báo Quốc núi Hàm Long giữa kinh đô. Ngài được bổn sư truyền pháp với pháp danh là Thanh Đức, tự Gia Khánh, hiệu Tâm Khoan, thuộc dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán, đời thứ 41.
Ở tuổi 23 (1897), ngài được thọ Đại giới tại Giới đàn Báo Quốc mà bổn sư của ngài là Tổ sư Hải Thuận được cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng. Ngài cũng đã được Tổ sư Hải Thuận truyền trao thâm ý hành đạo qua bài kệ phú pháp:
“Thanh nhi hữu đức tấn tâm thiền Gia Khánh hỷ nhiên đạo vĩnh truyền Đắc pháp tu bằng vi diệu pháp Hà lao biệt ngoại pháp tâm hiền”(Tạm dịch: Trong mà có đức phụng vâng thiền Mừng chúc hòa vui đạo mãi truyền Đắc pháp hãy nương vi diệu pháp Cần chi các pháp nhọc cầu huyền)
Tổ đình Kim Tiên - Ảnh Trí Năng
Với công hạnh uy nghiêm, ngài đã được sơn môn suy cử trụ trì tổ đình Báo Quốc ở tuổi tròn 37 (năm 1911). Ngài cũng đã được hai triều vua Khải Định và Bảo Đại cung thỉnh vào cung để truyền giới pháp cho nhà vua cùng hoàng thân quốc thích, đại thần. Đệ tử xuất gia của ngài có đến 42 vị.
Ngài cũng đã được triều đình công cử làm Tăng cang Quốc tự Diệu Đế, được các sơn môn cung thỉnh làm trụ trì tổ đình Thiền Tôn ở núi Thiên Thai, tổ đình Kim Tiên ở núi Bình An và chùa Quang Bảo. Ngài là vị trụ trì đã làm nên sinh khí thiền môn, trang nghiêm các ngôi phạm vũ trong thời gian tại thế. Nổi bật phải kể đến công cuộc phục hưng địa giới, củng cố thanh quy thiền môn ở chốn tổ Thiền Tôn núi Thiên Thai.
Quốc sư viên tịch ngày 25-4-Đinh Sửu (1937), Bảo Đại năm thứ 12. Tang lễ của ngài đã được sơn môn tổ chức vô cùng trang nghiêm theo nghi thức thiền gia. Song song đó, triều đình cũng đã có nghi lễ tưởng niệm trọng thể đối với một vị Quốc sư của hai triều. Tư liệu cũ ghi, trong khoảnh khắc thỉnh kim quan của ngài rời tổ đình Báo Quốc đến nơi nhập tháp, từ Hoàng thành đã phát khởi 21 tiếng thần công cung tiễn vị Thầy của vua.
Bảo tháp của ngài tôn trí trên vùng đất rộng 8 mẫu ta (40.000m2) tại một nơi yên tĩnh cô tịch tại phường Ngũ Tây, phường An Tây, cố đô Huế. Tịnh địa và bảo tháp đều do Đức Từ cung Đoan Huy hoàng thái hậu, một trong đệ tử của ngài hỷ cúng nhằm báo đáp ân sư.
Chư tôn đức nơi tháp Đức Tổ sư - Ảnh: Trí Năng
Đáng tiếc là qua thời gian, hoàn cảnh chiến tranh và nhiều nhân duyên khác, vùng đất xưa không còn nguyên vẹn, bị lấn chiếm, chỉ còn ngôi bảo tháp vẫn an nhiên tự tại. Mỗi năm, các thế hệ hậu duệ của ngài theo nếp xưa truyền từ đời này sang đời khác, thường vân tập tảo tháp, đảnh lễ và kính tưởng nhớ vị Tổ sư.
Gần đây, ngôi bảo tháp và khuôn viên lân cận đã được tu sửa trang nghiêm, bi ký tưởng niệm cũng đã được thất chúng đệ tử của ngài tôn tạo, nhắc nhở người đời nay và đời sau về hành trạng của một vị cao tăng, vị Quốc sư cuối cùng của triều Nguyễn.