Trong kinh điển, Ngài luôn giảng giải rằng: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước luật nhân quả và chân lý giải thoát. Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, trong máu cùng đỏ và cho dù là nam hay nữ, giàu sang hay nghèo hèn, địa vị cao hay thấp… Tất cả đều có khả năng tu tập và giải thoát giác ngộ trong giáo pháp của Như Lai”.
Chính vì vậy mà khi còn tại thế, Đức Thế Tôn thi thiết Bát kỉnh pháp cho bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề và chư vị Tỳ kheo ni, tất cả mọi người đều rất hoan hỷ đón nhận, trân trọng giữ gìn như một báu vật vô giá. Hơn ai hết, chính Ni chúng đã hiểu rằng: “Bát kỉnh pháp là yếu tố quyết định sự hình thành giới thể thanh tịnh của chư Tỳ kheo ni khi lãnh thọ giới pháp để trở thành một hành giả đi trên lộ trình giải thoát, giác ngộ giúp họ tin tấn nỗ lực tu tập và thành tựu”.
Cũng chính từ đây có rất nhiều vị Tỳ kheo ni đã chứng quả A la hán, trở thành bậc Thanh Ni xuất chúng, xứng đáng là phước điền cho chúng sanh nương tựa. Và cũng chính các bậc Thánh Tỳ kheo ni này sau khi chứng ngộ đã cảm nhận sâu sắc tình thương và trí tuệ của Bậc Đạo Sư đã dành cho Ni giới bằng con đường Giới Định Tuệ thiết thực, giúp chư Ni đạt được sự giải thoát, thành tựu trí tuệ vô lậu như các bậc Thánh Tỳ kheo.
Trong thời đại ngày nay, một số học giả đã tổ chức những cuộc hội thảo, diễn đàn và qua phương tiện Internet để thảo luận, bàn bạc về Bát kỉnh pháp và đưa ra nhiều ý kiến cho rằng cần phải bác bỏ Bát kỉnh pháp để phù hợp với tinh thần “nam nữ bình quyền” của thời đại văn minh.
Tế nhị hơn, Thiền sư Thích Nhất Hạnh không bác bỏ Bát kỉnh pháp mà đưa ra thêm một “Bát kỉnh pháp dành cho Tỳ kheo” nhằm mục đích mong muốn đem lại sự: “công bằng, dân chủ, văn minh, bình đẳng giữa Tăng và Ni” đã gây tranh cãi ít nhiều đối với Tăng Ni trẻ… Theo thiển ý của chúng tôi, sau khi đọc Bát kỉnh pháp dành cho Tỳ kheo của Thiền sư, chúng tôi cảm thấy tám điều này không có gì là mới, nếu không muốn nói là quá cũ. Bởi trên thực tế xưa nay tuy không tập thành văn nhưng trong Tăng đoàn, chư Tăng Ni luôn tôn trọng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và đã có rất nhiều chư Ni có trình độ, có học vị, có năng lực, có tâm huyết… cũng đã giữ rất nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo hội, kể cả việc tham gia giảng dạy trong các trường sơ cấp, trung cấp, đại học Phật giáo.
Chính vì vậy mà Bát kỉnh pháp dành cho Tỳ kheo, theo chúng tôi đây chỉ là “một trong những nét văn hóa giao tiếp xã hội mà thôi”, thực sự nó không thể nào thay thế cho Bát kỉnh pháp do Đức Phật thi thiết dành cho Tỳ kheo ni để trở thành một “hành giả trên lộ trình giác ngộ giải thoát”. Vì rằng, đối với những ai chưa đoạn trừ hết ái dục, chưa giải thoát khỏi lậu hoặc, chưa đạt trí tuệ vô lậu cua bậc Thánh thì không thể nào thấy rõ con đường chấm dứt khổ đau, không thể nào dẫn dắt kẻ khác ra khỏi rừng vô minh, ái dục. Dẫu rằng vị ấy có biện tài giảng giải rất hay, có phương pháp thiền tập phù hợp với căn tánh, văn hóa, nhận thức của một số người trong hiện tại…
Những gì Thiền sư Thích Nhất Hạnh tùy duyên uyển chuyển để đưa đạo Phật đi vào cuộc đời cho phù hợp với con người và xã hội hiện đại là một mô hình giáo dục Phật giao thực tiễn mang tính nhân văn, hợp với lòng người và dễ thực hành cho mọi đối tượng. Đứng về quan điểm Tâm lý học thì mô hình này cần được nhân rộng để mang lại sự đoàn kết, hòa hợp, bình đẳng cho mọi người.
Tuy nhiên chúng ta không nên lầm tưởng giữa “Văn hóa giao tiếp” với “Thánh giới uẩn, giữa “Phương pháp thư giãn” với “Thánh định uẩn”, giữa “Tri thức học giả” với “Thánh tuệ uẩn”.
Do đó, nếu ai muốn hướng dẫn cho chư Tăng Ni, Phật tử tu tập hay muốn thay đổi văn bản giới luật do Đức Phật thi thiết thì xin hãy tỉnh giác điều này, bởi “làm thân người đã khó, gặp Chánh pháp lại càng khó hơn”.