Vài nét về hành trạng Đại lão HT.Thích Diệu Tâm

GNO - Là bậc chân tu thạc đức, sáng ngời giới hạnh, tinh tấn không ngừng trên con đường lập hạnh tu và hoằng hóa, Hòa thượng Thích Diệu Tâm xứng đáng là một bậc "Tòng lâm thạch trụ" đương thời.

on phi lai_1.jpg


Đại lão HT.Thích Diệu Tâm

I. Thân thế

Hòa thượng họ Lâm, sau đổi họ Nguyễn, sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Mỹ Trung, xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Lâm Du Nhân, pháp danh Tâm Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mua, pháp danh Tâm Đắc. Hai cụ thân sinh, do có túc duyên với Tam bảo nhiều đời, nên đã hoan hỷ cho Hòa thượng xuất gia từ nhỏ và đã phát tâm mua đất kiến tạo ngôi tự viện Phi Lai tại xã Hòa Thịnh, tạo thuận duyên tu học cho Hòa hượng.

Hòa thượng có 7 anh em, 5 trai 2 gái, Hòa thượng là người con thứ 2 trong gia đình. Cả gia đình đều trực tiếp tham gia vào sự nghiệp cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc.

II. Đạo nghiệp

Vốn có chủng tử xuất trần, cho nên mặc dù hai cụ thân sinh muốn cho Hòa thượng theo học chữ Hán và ngành Đông y, Hòa thượng đã quyết tâm chọn con đường Phật đạo ngõ hầu thoát ly sanh tử. Hòa thượng thuộc đời thứ 43 dòng thiền Lâm Tế và là thế hệ thứ 9 của thiền phái Liễu Quán.

- Năm 19 tuổi (1935) được sự cho phép của song thân, Hòa thượng thọ pháp xuất gia với Tổ Trừng Thân - Hoằng Nhơn tại tổ đình Phú Quang - xã Hòa Thịnh với pháp danh là Tâm Nguyện, tự là Thiện Tu.

- Từ 1937 - 1939: Hòa thượng phát nguyện đi tham cầu Phật pháp với chư vị tiền bối như Yết-ma Vĩnh Tường, chùa Long Quang, xã Hòa Thịnh; Hòa thượng Thiên Hòa, tổ đình Kim Cang, TP.Tuy Hòa.

- Từ 1939 - 1942: Tiếp tục chí nguyện đi cầu pháp, Hòa thượng phát tâm cầu pháp với Tổ Trừng Thành - Vạn Ânm tổ đình Hương Tích, xã Hòa Mỹ. Trong thời gian này, Hòa thượng được nghe nhiều bộ kinh luận Đại thừa do Tổ Trừng Thành giảng, và Tổ ban pháp hiệu là Diệu Tâm.

- Năm 1943: Hai cụ thân sinh phát tâm tạo mãi đất, Hòa thượng đã đứng ra kiến lập ngôi già lam Phi Lai tại xã Hòa Thịnh (Hòa thượng đã trú trì cho tới năm 1975 thì trao lại cho trưởng tử là thầy Thích Thiện Đạo trông coi).

- Cũng trong năm 1943: Cùng với chư sơn Phú Yên, Hòa thượng đã đến tổ đình Thiên Đức tỉnh Bình Định nhân dịp Đại giới đàn, đảnh lễ Hòa thượng Huệ Chiếu cần cầu thọ Cụ túc giới. Từ đây Hòa thượng chuyên thọ trì pháp môn Tịnh độ và Mật tông, mở đạo tràng hướng dẫn Phật tử tu nhân hành thiện.

- Từ 1945 đến 1954: Đây là thời gian cuộc chiến tranh chống Pháp của nhân dân ta lan rộng và quyết liệt. Cùng với nhân dân xã Hòa Thịnh, Hòa thượng đã tham gia kháng chiến, tích cực đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc. Với cương vị một người tu hành yêu nước, Hòa thượng đã nắm giữ các chức vụ và công tác:

* Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc xã Hòa Thịnh.

* Hội phó Hội Liên Việt xã Hòa Thịnh.

* Trưởng ban Kinh tài Chi bộ xã Hòa Thịnh.

Trong thời gian này, chùa cũng là trụ sở Ủy ban Mặt trận xã và Chi bộ xã Hòa Thịnh.

- Từ năm 1954 - 1964: Sau khi Hiệp định Genève ký kết, hòa bình được lập lại, nhưng đất nước bị chia đôi, Hòa thượng trở về cương vị tu hành và hướng dẫn bá tánh tu tâm hành thiện.

- Đầu năm 1964: Chùa bị máy bay Mỹ thả bom đốt cháy tiêu hủy, cộng với tình hình chiến tranh mỗi ngày mỗi gay gắt, Hòa thượng phải tạm lánh về thành phố và bắt đầu vân du vào Nam hành đạo.

- Từ 1964 - 1968: Trên đường Nam du hành đạo, Hòa thượng đã được mời giữ chức vụ trụ trì chùa Đức Quang, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa thời gian hai năm, sau đó đến tu học tại tổ đình Quán Thế Âm, quận Phú Nhuận.

- Năm 1969: Như một nhân duyên tiền định, Hòa thượng phát nguyện trở lại Biên Hòa và kiến tạo ngôi thảo am Phi Lai tại phường Tân Tiến. Qua bao thăng trầm hưng suy, ngôi thảo am ngày nào bây giờ đã là ngôi phạm vũ huy hoàng kiên cố, có bề thế về mặt tu tập và truyền thừa. Hòa thượng cũng đã thành lập đạo tràng Niệm Phật, đạo tràng Bát quan trai, Hội Hiếu Nghĩa, tạo duyên lành để bá tánh quy ngưỡng Tam bảo, tu tập Chánh pháp, hướng thiện cuộc sống, góp phần xây dựng con người và xã hội theo tiêu chí tốt đạo đẹp đời.

Có thể nói, từ ngôi già lam Phi Lai này, công cuộc hoằng hóa của Hòa thượng đã gắn liền với sự phát triển của Phật giáo Biên Hòa - Đồng Nai, vùng đất có nhiều âm hưởng của Phật giáo Đàng Trong.

- Từ 1970 - 1977: Làm Cố vấn Ban Đại diện Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Biên Hòa.

- Từ năm 1977 - 1981: Làm Phó ban Đại diện Phật giáo Việt Nam Thống nhất tỉnh Biên Hòa.

- Từ năm 1982 - 2007: Sau khi Phật giáo được thống nhất ba miền, Hòa thượng đã được mời giữ các chức vụ trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam và tỉnh Đồng Nai:

1. Trung ương: Thành viên Hội đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam khóa IV, khóa V, khóa VI và khóa VII.

2. Tỉnh hội:

+ Phó ban Trị Sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai các khóa I, II, III (1982-1996).

+ Phó ban Trị sự Thường trực Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai các khóa IV, V (1997-2007).

+ Chứng minh Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai khóa VI, khóa VII.

Hòa thượng là một bậc thiền gia chân chánh, đạo đức sáng ngời, mật hạnh tinh chuyên. Hòa thượng luôn được Giáo hội tin tưởng giao các chức vụ quan trọng và đã hết lòng tận tụy với các công tác Phật sự được Giáo hội giao phó.

Trong Phật sự truyền đăng tục diệm, Hòa thượng được cung thỉnh tác pháp Phật sự quan trọng trong các Đàn giới từ năm 1982 đến nay như sau:

+ Giáo thọ A-xà-lê Đàn giới năm 1982, 1984, 1987 tại tỉnh Đồng Nai.

+ Yết-ma A-xà-lê Đàn giới năm 1989,1997 tại tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu.

Hòa thượng Đàn đầu Giới đàn Huệ Thành 2004, 2007 và giới đàn Nguyên Thiều 2009.

Với đạo đức sáng ngời, mật hạnh tinh chuyên, nên Hòa thượng đã được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng, Yết-ma, Giáo thọ nhiều Đại giới đàn ở Đồng Nai và các tỉnh lân cận. Hòa thượng còn thường xuyên được mời chứng minh khai sơn xây dựng hàng trăm ngôi tự viện, chứng minh chú nguyện rót đồng hàng trăm tượng Phật và đại hồng chung, truyền quy giới cho hàng ngàn Phật tử tại gia thuộc các tỉnh Phú Yên, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Thuận…

Vì tương lai của Đạo pháp, Hòa thượng luôn luôn quan tâm đến Phật sự đào tạo Tăng tài, giáo dục Tăng Ni, nên đã được cung thỉnh chứng minh và giữ chức vụ Trưởng ban Kiến thiết Trường Trung cấp Phật học tỉnh Đồng Nai nhiều niên khóa.

Ngoài ra, vì uy tín và đức độ, Hòa thượng đã được mời tham gia Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai khóa V.

Đầu năm 2004, nhận thấy sức khỏe đã suy giảm mà Phật sự tại chùa thì đa đoan, nhu cầu tu học của Phật tử đang phát triển nên Hòa thượng đã chính thức trao trách nhiệm điều hành quản lý Phật sự tại chùa cho đệ tử là HT.Thích Thiện Đạo, để có thời gian tịnh tâm niệm Phật trong tuổi già sức yếu.

Về khen thưởng:

Do có nhiều công đức trong hạnh nguyện phụng đạo giúp đời, Giáo hội và chính quyền các cấp đã trao tặng nhiều bằng khen và tuyên dương công đức:

- Bằng khen của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam

- Bằng khen của UBND tỉnh Đồng Nai.

- Bằng tuyên dương công đức của Hội đồng Trị sự GHPGVN và Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai.

Từ năm 2007 đến nay, do tuổi già sức yếu không thể điều hành trực tiếp Phật sự, nên Hòa thượng đã được chư tôn giáo phẩm Ban Thường trực Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai cung thỉnh vào ngôi vị Chứng minh Ban Trị sự cho đến ngày viên tịch.

III. Viên tịch

Là bậc chân tu thạc đức, sáng ngời giới hạnh, tinh tấn không ngừng trên con đường lập hạnh tu và hoằng hóa, Hòa thượng xứng đáng là một bậc "Tòng lâm thạch trụ" đương thời. Hơn 90 năm hiện hữu giữa dòng đời, mặc dù tuổi cao sức yếu, Hòa thượng vẫn tinh chuyên công phu ba thời, trong thì khắc kỷ lập đức, ngoài thì hoan hỷ làm hạnh, không từ khó nhọc không nệ hơn thua, nơi nào Phật sự cần Hòa thượng có, nơi nào Hòa thượng có thì Phật sự được thành tựu tốt đẹp, chư Tăng Ni, Phật tử từ Biên Hòa - Đồng Nai, TP.Hồ Chí Minh cho đến các tỉnh lân cận đều rất kính mộ giới đức của Hòa thượng.

Thế rồi, luật vô thường lại đến, mọi sự hiện hữu trên cuộc đời qua các pháp hữu vi đều phải biến hoại. Do niên cao lạp trưởng, ngũ ấm xí thạnh, Hòa thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc: 14giờ 00" ngày 24 tháng 6 năm Quý Tỵ (nhằm ngày 31/7/2013) trụ thế 98 tuổi, hạ lạp70 năm.

Hòa thượng đi về cõi Phật, đã để lại trong lòng đệ tử xuất gia cũng như tại gia vô vàn thương tiếc kính nhớ, Tăng Ni, Phật tử gần xa mất đi một vị đạo sư khả kính, một chỗ dựa vững chắc trên bước đường hướng về chân trời giải thoát, Giáo hội mất đi một bậc "Tòng lâm thạch trụ" sáng ngời đạo hạnh đã hết lòng tận tụy hy sinh cho Đạo pháp, Dân tộc.

Giờ đây, trước kim quan Hòa thượng, chúng con xin thành kính cung tuyên tiểu sử của Hòa thượng để tỏ lòng tri ân công đức hóa độ của Hòa thượng và cũng để nêu gương cho hàng hậu học noi theo. Giáo hội, môn đồ tứ chúng, Tăng Ni, Phật tử gần xa xin thành kính đốt nén tâm hương dâng lên cúng dường Giác linh Hòa thượng, cầu nguyện Hòa thượng cao đăng thượng phẩm, quả chứng vô sanh, và kính xin Hòa thượng bất vi bổn thệ, hồi nhập Ta-bà, viên mãn Bồ-tát hạnh, lợi lạc quần sanh, báo Phật ân đức.

Cung Duy: Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Tam Thế, Đệ Cửu Đại Liễu Quán Thiền Phái, Phi Lai Đường Thượng, Thượng TÂM Hạ NGUYỆN Tự THIỆN TU, Hiệu DIỆU TÂM Tân Viên Tịch Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh, Liên Tòa Chứng Giám.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.