Do đó, ta chẳng ngạc nhiên gì khi nhà Lý được sáng lập, vấn đề xây dựng đất nước, phục hưng mọi giá trị văn hóa truyền thống Đại Việt được đặt lên hàng đầu. Dưới sự bảo trợ của triều đình, hệ tín ngưỡng Tứ pháp: Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện được phát triển mạnh mẽ trong đời sống sinh hoạt tâm linh, văn hóa xã hội nước Đại Việt để đáp ứng nhu cầu tất yếu của lịch sử đặt ra.

Chùa Dâu
Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư, quyển 3, tờ 6b8 ghi dưới thời vua Lý Nhân Tông vào năm 1073, khi mới lên ngôi, vua đã đích thân đứng ra tổ chức đại lễ hội rước Phật Pháp Vân để cầu đảo với khát vọng Phật nhật tăng huy, Phong hòa vũ thuận, Quốc thái dân an: “Quí sửu Thái Ninh nhị niên, dâm vũ, nghinh Pháp Vân phó kinh từ tình” (Thái Ninh thứ hai, năm Quí Sửu, lúc bấy giờ mưa dầm, bèn rước Phật Pháp Vân về kinh đô cầu tạnh). Sau đó, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quyển 3, tờ 31b6 ghi “Quí sửu, Nhân Tông hoàng đế Thái Ninh nhị niên, dâm vũ bất chỉ, đế mệnh từ tình vu Pháp Vân tự” (Thái Ninh năm thứ hai, năm Quí sửu, mưa dầm không ngớt, vua sai cầu tạnh ở chùa Pháp Vân). Các sử liệu nói trên đã minh chứng cho hệ tín ngưỡng Tứ Pháp đã tạo ra dấu ấn, đặc trưng riêng của Phật giáo Việt
Xem ra, cơ sở lý luận thực thi sứ mệnh trọng đại đó, nhà Lý và các triều đại về sau đều dựa trên nền tảng hệ tín ngưỡng Tứ pháp để phát huy nội lực nhằm chấn hưng đất nước; khi đất nước hưng thịnh thì đạo pháp có khả năng xiển dương, thể nhập vào đời sống tâm linh quần chúng. Sự tác động qua lại này cho ta thấy tiến trình bản địa hóa đạo Phật Việt

Hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tại vùng chùa Dâu
Rõ ràng, khi Phật giáo được truyền vào Giao Châu, sau một thời gian Phật Quang bản địa hóa giáo lý thì đến lượt Khâu Đà La là nhà sư thứ hai bản địa hóa Phật điện. Sự xuất hiện hình ảnh Phật điện trong tín ngưỡng như là nhân tố quan trọng, tích cực cùng đồng hành với dân tộc trong sự nghiệp chống lại sự đồng hóa văn hóa nô dịch Trung Hoa và phát triển văn hóa nước nhà. Ta có thể nói, tín ngưỡng chủ đạo Phật giáo Giao Châu bấy giờ là tín ngưỡng Tứ pháp. Văn bản được xem là sớm nhất ghi nhận về cội rễ hình thành hệ Tứ Pháp này là Cổ châu Pháp Vân Phật bản hành ngữ lục. Có ý kiến cho rằng, tác phẩm này, có thể được viết vào khoảng thời gian 1322 và văn thể có nhiều điểm tương đồng với văn thể của Thiền uyển tập anh, do đó tác giả hai tác phẩm này là một(1). Ngoài văn bản này ra, Trần Thế Pháp khi viết Lĩnh
Theo ghi chép của Cổ châu Pháp Vân Phật bản hành ngữ lục thì cội nguồn của hệ Phật Tứ Pháp ra đời và hình thành từ sự tích là vào năm tháng cuối Hán Linh Đế (189 sdl) có nhà sư Kỳ Vực và Khâu Đà La chống gậy sang Giao Châu, đến thành Luy Lâu. Bấy giờ có cư sĩ Tu Định, thỉnh 2 sư ở lại. Sư Kỳ Vực, không nhận lời, chống gậy ra đi, chỉ có Khâu Đà La về nhà Tu Định. Sư tham thiền tĩnh tọa, khiến cho Tu Định đem lòng kính ngưỡng. Trong nhà có một cô con gái 12 tuổi, thường thờ sư, thắp đèn hái rau, cung kính, sư lấy làm lạ đặt tên là A Man. Một tháng sau sư giã từ, Tu Định xin làm đệ tử, nguyện được một lời nửa câu để làm sạch mình. Sư dạy: “sảy cám lấy tấm, ngày tối bốn phương đổi ngôi, vì chưng lòng mê thì mắc phàm trái Thánh. Nay ngươi ở trong phép ta bởi vì có duyên xưa vậy. Nhưng còn con gái A Man tuy là thân nữ, song rất có phần đạo, nếu gặp một người nam thì thành nên một pháp khí mới. Ngày nay ta độ cho người như chỗ người mong muốn”. Do thế, sư ở lại, sáng chiều trì kinh, sư nhấc chân lên, kéo dài 7 ngày, rồi gọi A Man đến, xoa đầu nói: “Con đã thành pháp khí của ta”. Nhân đó lại bảo: “Sau đây ba năm, trời đất có hạn lớn, chẳng phải chỉ mùa lúa khô héo mà người vật đều không có chỗ uống. Ta giúp nhà con một việc sức khí”. Sư ở trong vườn lấy gậy cắm xuống đất mất dạng. Rồi thì nhổ ra, nước theo đó mà phun lên, bảo Tu Định đào giềng ở đó, chuẩn bị thiên tai hạn hán sắp xảy ra. Sau đó sư ra đi, thẳng vào núi. Tu Định dắt A Man theo gót đến chân núi, biết chỗ sư ở, ngồi dưới gốc cây, lấy hang đá làm nhà. Tu Định thường đem rau trái đến cúng dường, có khi A Man đi một mình, từ sáng đến chiều mới về. Đến tuổi cặp kê, chưa chồng mà đã có thai. Tu Định xấu hổ, đến Sư chất vấn: “Gái không chồng mà có chửa, lỗi tại ai”. Sư cười và nói: “Nhẫn, nhẫn, nhẫn, tất cả oan gia từ đây hết". Mười bốn tháng sau, vào ngày 8 tháng tư thì hạ sinh bé gái, A Man bồng con đến núi, giao con cho sư. Sư bảo: “Các cây đại thụ ở đây, có cây nào vì ta mà nuôi dưỡng đứa trẻ thì mở lòng chứa nó, ngày kia vì trời người mà ra lệnh, muôn đời được tôn trọng”. Liền có một cây lớn đáp lời, mở toát ra, sư đặt đứa bé vào trong chỗ mở thì cây khép. Sư đọc kệ: “Hình hài như nghịch lữ, Tâm không cảnh cũng không. Quấn quýt một mùi đạo, Đáp vật muôn duyên cùng”. A Man lượng sức mình, lạy vọng trở về. Ba năm sau gặp hạn hán, không mưa, nhiều người chết khát. Chỉ riêng nhà A Man, giếng nước không khô, cả thành sống được nhờ giếng. Sĩ Vương hay tin gọi A Man hỏi, Sĩ Vương cho người vào núi nhưng bất thành. Sau đó Sĩ Vương ủy nhiệm A Man đến núi thay thỉnh cầu sư ở cây đại thụ. Sư đứng dậy, nhấc chân, bỗng chốc mưa to. Dân chúng cả nước ngưỡng mộ, đem của cải tới dâng cúng sư. Sư không quan tâm, chỉ ngày đêm thiền định.
Sau đó, gió đen nổi lên, cây đại thụ ngã, nước lụt trôi chảy về Long Biên, đến thành Long Biên thì dừng lại. Nghe trong cây có tiếng nhạc, ánh sáng rực rỡ, có mùi thơm lạ. Sĩ Vương sai người kéo cây đại thụ để sử dụng. Nhưng ban đêm nằm mơ thấy người to lớn bảo: “Ngày nay cùng với ông nở mặt nở mày. Nhìn lui, nhắm mà đi, trong tám ngàn năm”. Sĩ Vương tỉnh dậy, có người dâng lời: “Gỗ này là gỗ thiêng, bởi muốn tạc tượng thần ư?”. Nhân đó Sĩ vương mời thợ mộc Đào Tư Lượng cắt gỗ làm bốn đoạn, tạc bốn tượng Phật. Khi cắt bên trong cây thì có một khối đá, liền đem xuống sông rửa. Khối đá bị rớt xuống lòng sông, chỗ rớt khối đá gọi là “vực Phật ở”. Còn bốn tượng Phật thì phân cho bốn phường lập bốn chùa: Thiền Định, Thành Đạo, Phi Tướng và Trí Quả để thờ. Ngày khánh thành, lúc chưa đưa tượng vào thì nắng hạn lớn, liền khấn xin thầm cảm, trời bỗng mưa lớn, nhân thế đặt tên là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Đến lúc đưa vào chùa, ba tượng nhấc lên nhẹ nhàng, riêng tượng Pháp Vân thì không thể dời được. Sĩ Vương hỏi thợ, thợ nói là do hòn đá. Sĩ Vương liền sai thợ lặn vào trong nước của vực, thấy ánh sáng tỏa, cuối cùng tìm thấy được hòn đá. Họ đặt hòn đá trước tượng thì tượng đưa lên một cách nhẹ nhàng. Ngẫm ra, mới biết cây gỗ đó chính là cây đã mang giữ con của Khâu Đà La, tức là con gái của Man nương vậy. Sĩ Vương nhân đó, sai của cải hương đèn vào núi tạ ơn sư. Tìm mãi không ra, chỉ thấy nơi cây lưu một bài kệ “Kham ta tuế mạo lão dư linh, Thả hỷ bang gia tứ hải thanh. Yếu sử mộ niên quy xứ sở, Bạch vân thâm xứ tửng đình đình” (Thương thay chín chục tuổi dư hơn, Mừng được nước nhà bốn biển trong. Già đến những mong về đất cũ, Rừng sâu mây trắng vút từng không). Hoặc có người nói sư đã hóa thân hoặc đi truyền đạo nước khác. Ngày nay, trước chùa Thiền Định có ngôi mộ, người đời gọi là mộ của A Man, tức là mộ Phật mẫu Man nương.
Từ nội dung sự tích nói trên, ta thấy tình hình sinh hoạt Phật giáo nước ta bấy giờ đã được bản địa hóa rõ ràng cụ thể. Nếu ở giai đoạn buổi đầu, vai trò Phật giáo quyền năng, được thiết lập một cách rõ ràng cụ thể để Phật giáo dễ dàng thâm nhập tín ngưỡng dân gian đa thần của người Việt. Từ Chữ Đồng Tử, Tiên Dung và nhà sư Phật Quang, rồi đến Tu Định và Man Nương và sư Khâu Đà La, thực chất đây là cả quá trình tiếp biến, bản địa hóa đạo Phật, khiến cho Phật giáo có vị thế vững chắc trong lòng dân tộc, tạo nên sắc thái đặc biệt của Việt Nam. Do đó, sau biến cố 43 sdl, thời Hai Bà Trưng, sự ra đời hệ Phật Tứ Pháp là quy luật lịch sử tất nhiên. Nó là cơ sở lý luận để phát huy các yếu tố cơ bản, tích cực để phát huy ý thức tự chủ của dân tộc trước sự xâm lăng và ý đồ đồng hóa của phong kiến Trung Hoa. Một mặt, giới Phật giáo cộng đồng người Việt nỗ lực bản địa hóa giáo lý cơ bản như nhân quả, nghiệp báo luân hồi, về Phật, Pháp, Tăng của nhà Phật theo đạo lý truyền thống và tín ngưỡng đa thần, được diễn đạt theo cách hiểu và ngôn ngữ Việt bấy giờ. Chẳng hạn, trong Lý hoặc luận viết: “Phật là nguyên tổ của đạo đức, nguồn gốc thần minh. Phật là thức tỉnh, ngài có biến hóa thần thông, phân thân tán thể, khí có đó, khi không đó, khi lớn khi nhỏ, khi già khi trẻ, khi ẩn khi hiện, lửa đốt không được, đao không đâm được, trong bùn không nhiễm, giữa họa không bị tại ương, khi đi thì có thể bay, khi ngồi hào quang chiếu sáng. Đó là Phật”(2). Mặt khác, giới Phật giáo cũng nhiệt tâm xây dựng hình tượng Phật được cụ thể cho phù hợp tư tưởng người Việt. Và như vậy, người Việt giải trình vấn đề bản địa hóa đạo Phật bằng thể nhập niềm tin và chuyển hóa thân tâm. Con người có thể vươn tới những quyền năng bằng sự tu thân, phải hiếu thảo cha mẹ, sống có nhân nghĩa, không lấy của không cho, không tà dâm…để trở thành những con người có phẩm tính cao cả, lên trời, đi trên hư không, không vẫy đục trong bùn như Lục độ tập kinh mô tả hay như trong Lý hoặc luận mà Mâu Tử định danh là một vị Phật. Ấn Độ có một Đức Phật Thích Ca lịch sử, khi đạo Phật vào Giao Châu, với tinh thần khế lý khế cơ, quá trình bản địa hóa đó đòi hỏi cần tái tạo một hình ảnh những vị Phật xuất phát từ trong cội rễ văn hóa nước nhà, được hình thành từ trong hiện thực lao động, thật bình dị và gần gũi để cầu nguyện, gởi gắm tâm tư nguyện vọng của mình. Cho nên, các vị Phật của cộng đồng người Việt bấy giờ phải có những yếu tố người Việt thật, mang dáng vóc và gương mặt người Việt. Vì vậy thần mây, thần mưa, thần sấm, thần sét đã hóa thành hệ Tứ Pháp bao gồm Phật Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Hẳn nhiên trong tâm thức người Việt, thần điện người Việt đã có những vị thần này rồi, để rồi một ngàn năm sau, vào thời Trần ta có Phật hoàng Trần Nhân Tông làm rạng rỡ ba lần lãnh đạo dân ta đánh tan quân Nguyên Mông, mở bờ cõi phương Nam, phục hưng văn hóa Đại Việt.
Cũng từ nội dung các truyền bản về Tứ Phật pháp, ta có nhìn thấy Phật giáo Việt
Do đó, hình ảnh Phật Pháp Vân linh ứng phò trì cho cả dân tộc được mô tả khá kỹ lưỡng và các cuộc lễ rước Phật Pháp Vân, đại diện cho cả 3 vị Phật còn lại được tổ chức hoành tráng được ghi nhận vào trong phần sau Cổ châu Pháp Vân Phật bản hành ngữ lục rất chi tiết. Theo tư duy của người Việt thì 3 vị Phật: Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện phải tùy thuộc vào Phật Pháp Vân, do đó sự hình thành bốn vị Phật này, Phật Pháp Vân được xem là nhân tố lãnh đạo của ba vị Phật còn lại (có mây mới có mưa, sấm và chớp). Thế nên, nhà Lý, các vua không ngừng tổ chức Lễ hội rước Phật Pháp Vân ở cấp Quốc gia về kinh đô Thăng Long để cầu quốc thái dân an, mưa gió thuần hòa, nhà nhà thịnh vượng mà Quốc sử đã ghi. Sang đời Trần, hệ Tứ Pháp lại càng được phát huy khá mạnh mẽ, cùng với chùa Dâu và một loạt hệ thống chùa thờ Tứ Phật Pháp ở vùng chùa Dâu, được trùng tu như chùa Cổ Châu, chùa Thành Đạo, chùa Bình Văn, Linh Thông, chùa Trí Quả, chùa Phúc Nghiệm, nhằm phục vụ cho vai trò kết nối tinh thần đoàn kết dân tộc, lấy hệ tư tưởng Phật giáo, cùng với tinh thần yêu nước để đánh tan quân Nguyên Mông, phục hưng văn hóa Đại Việt. Năm 1313, dưới sự chỉ đạo của triều đình, trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã đứng ra xây dựng lại chùa Dâu với quy mô rất lớn là “chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp” được xem như là biểu tượng văn hóa Phật giáo Đại Việt. Nơi đây trở thành trung tâm sinh hoạt Phật giáo từ học thuật cho đến tín ngưỡng mà bất cứ người Việt nào cũng có thể tự hào: “Giao Chỉ có Luy Lâu, Luy Lâu có chùa Dâu. Dù ai đi đâu về đâu, Đến ngày mùng Tám tháng Tư hội Dâu nhớ về”.
Sau nhà Trần, Lê Lợi sau những ngày đánh tan quân Minh, nhà Lê tái lập lại nền độc lập và phục hưng văn hóa dân tộc lần nữa. Những vị vua Phật tử như Lê Lợi, cùng với những đại thần như Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân đã nỗ lực xây dựng hệ tư tưởng Phật Tứ Pháp để đối kháng lại những văn hóa ngoại lai, trong đó có cả Phật giáo nhà Minh đưa sang. Do đó Phật giáo chùa Dâu và Phật Pháp Vân trở thành đối tượng tôn thờ và kết nối truyền thông tính tự chủ, độc lập dân tộc. Một loạt tác phẩm thi ca ra đời để vịnh về chùa Pháp Vân nhằm ca ngợi sự linh ứng của Phật Pháp Vân đối với Phật pháp và đất nước mà ngày nay ta còn bảo lưu được trong Hồng Đức Quốc âm thi tập. Trong vai trò của lịch sử, Phật Pháp Vân được tôn vinh “Tỉnh phò thế nước dường như tại, Thăm thẳm cao trông nữa thái dương”. Và thiền sư Pháp Tính (1470- 1550) đã dịch Cổ Châu Pháp Vân bản hạnh ngữ lục ra tiếng Nôm gọi là Cổ Châu Pháp Vân bản hạnh. Trong tác phẩm này, ta thấy Lễ hội rước Phật Pháp Vân diễn ra thật sinh động dưới triều đại Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Ngoài ra, ta cũng thấy việc Lý Tử Tấn (1378 - 1460) đã viết bi ký Pháp Vân cổ tự bi ký, do Lê Quý Đôn ghi chép trong kiến văn tiểu lục 9 tờ 14b5 - 15b9 với hình ảnh vị vua Lê mới lên ngôi và rước Phật Pháp Vân về Thăng Long cầu mưa với ước nguyện mong sao mưa gió thuận hòa, đất nước thịnh vượng, đạo pháp miên trường, nhân dân an lạc. Đến thế kỷ XVI, Việt sử diễn âm ra đời, ghi nhận vai trò và vị trí của hệ tư tưởng Tứ Phật Pháp trong tâm thức người Việt: “Siêu loại có làng Cổ Châu, Làm bốn tượng Phật nhẫn sau còn truyền. Hiệu là Pháp Vũ - Pháp Vân, Pháp Lôi - Pháp Điện còn truyền đến nay”.
Và như vậy, trải qua từng giai đoạn lịch sử ứng với các triều đại, tín ngưỡng Phật Tứ Pháp đã có một vai trò lịch sử rất to lớn trong việc phát huy nội lực, đề cao ý thức độc lập tự chủ, gìn giữ và phục hưng bản sắc văn hóa dân tộc Đại Việt. Đến triều Nguyễn, các vị vua từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức…tiếp tục tôn thờ và phát huy những giá trị tâm linh, cũng những giá trị nhân văn, văn hóa, văn học, mỹ thuật… mà hệ Phật Tứ Pháp đem lại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ văn hóa dân tộc. Hẳn nhiên, thế hệ hôm nay càng có nhiều cơ hội và khả năng khai thác các giá trị văn hóa tâm linh mà hệ Phật Tứ Pháp đang còn tiềm ẩn, để đối thoại với văn hóa hội nhập toàn cầu.