Từ rất sớm, chư tôn đức giáo phẩm chứng minh, thành viên Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế cùng rất đông Tăng Ni các tổ đình, tự viện trong và ngoài tỉnh thuộc phổ hệ truyền thừa thiền phái Liễu Quán đã vân tập về tổ đình Thiền Tôn tọa lạc tại núi Thiên Thai - ngôi cổ tự gắn bó mật thiết với cuộc đời hành đạo của Tổ sư trên đất Thuận Hóa.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Quang Nhuận, Thành viên Hội đồng Chứng minh, Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo Thừa Thiên Huế cùng chư tôn đức Ban Kinh sư cử hành lễ Phổ Phật cúng ngọ. Tiếp đó, Hòa thượng Thích Giác Đạo, Phó Thường trực Ban Nghi lễ T.Ư đương vi sám chủ, cùng chư tôn đức Ban Kinh sư cử hành lễ cung tiến Giác linh.
Hòa thượng Thích Quang Nhuận niêm hương cúng Phật |
Chia sẻ với Giác Ngộ, Hòa thượng Thích Giác Đạo cho biết, năm nay, nhân Hội thảo khoa học “Thiền phái Liễu Quán: Lịch sử hình thành và phát triển” lần đầu tiên được tổ chức tại Huế, là một sự kiện hết sức đặc biệt mang ý nghĩa minh định về cuộc đời, đạo nghiệp của Đức Tổ sư Liễu Quán và sự hình thành, phát triển và phổ hệ truyền thừa của thiền phái mang tên ngài, theo đó, lễ tảo tháp và húy nhật Tổ sư Liễu Quán cũng được tổ chức với quy mô trọng thể hơn.
“Trong lễ húy nhật năm nay, trên nền tảng chuẩn mực của khoa nghi Thiền môn xưa, chúng tôi đã soạn ra một nghi cúng húy nhật với phần văn chúc tán thể hiện trọn vẹn được cuộc đời và đạo nghiệp sâu dày của Tổ sư Liễu Quán. Việc làm này như tấm lòng thành của con cháu Thiền phái Liễu Quán từ muôn phương sum họp về dâng lên Đức Tổ sư, sau nữa cũng là dịp để xiển dương di sản quý giá mà Tổ sư Liễu Quán và chư lịch đại Tổ sư kế thế đã trao truyền cho hàng hậu tấn.”, Hòa thượng cho biết.
Hòa thượng Thích Giác Đạo cùng chư tôn đức Ban Kinh sư cử hành khóa lễ Cung tiến Giác linh |
Tổ sư họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, khánh sanh vào giờ Thìn ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (nay thuộc thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Ngài mồ côi mẹ từ năm lên 6 tuổi (1673). Năm 12 tuổi (1678), trong một lần được thân phụ đưa đi chùa Hội Tôn ở Phú Yên lễ Phật, được gặp Hòa thượng Tế Viên rồi xin Hòa thượng xuất gia tại đây. Học đạo tại chùa Hội Tôn được 7 năm (1680) thì Hòa thượng Tế Viên viên tịch. Sau khi lo lễ tang của Thầy hoàn tất, ngài lên đường ra Thuận Hóa, đến núi Hàm Long đảnh lễ Giác Phong Lão Tổ xin học đạo. Năm Tân Mùi (1691), sau hơn 10 năm học đạo tại đây, và sau một năm được xuống tóc, ngài xin phép Giác Phong Lão tổ trở lại quê nhà Phú Yên để phụng dưỡng thân phụ đang ốm bệnh. Sau bốn năm thì thân phụ ngài qua đời.
Đông đảo Tăng Ni, Phật tử các nơi về tham dự |
Năm Ất Hợi (1695), Ngài lại trở ra Thuận Hóa cầu thọ Sa-di giới tại Giới đàn chùa Thiền Lâm, do Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu tổ chức, Hòa thượng Thạch Liêm Đại Sán làm Đàn đầu truyền giới. Hai năm sau, vào năm Đinh Sửu (1697), ngài thọ Cụ túc giới với Từ Lâm Lão tổ. Sau khi đắc giới Cụ túc, ngài vào tịnh tu tại một ngôi miếu nhỏ dưới chân hòn Mô (núi Ngự Bình), và đến mùa Đông năm ấy (Đinh Sửu, 1697), Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức cho trùng tu ngôi miếu thành chùa và sắc ban biển hiệu “Sắc tứ Viên Thông am”.
Đến năm Kỷ Mão (1699), ngài tham lễ khắp chốn tòng lâm Thuận Hóa để tìm cao tăng cầu học đạo thiền. Năm Nhâm Ngọ (1702), ngài tìm đến chùa Ấn Tôn (tức Từ Đàm ngày nay) ở núi Long Sơn, đảnh lễ Tổ Minh Hoằng Tử Dung cầu học pháp tham thiền và được Tổ trao công án:
“Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?”
(Muôn pháp về một, một về chỗ nào?).
"Đồng chơn nhập đạo, khí vũ siêu quần; Hội Tôn xuất gia, Hàm Long học đạo" |
Mùa xuân năm Mậu Tý (1708), ngài trở lại chùa Ấn Tôn cầu Tổ sư Tử Dung ấn chứng. Đến mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Tổ sư Tử Dung vào Quảng Nam dự lễ “Toàn viện”, nhân đó ngài trình lên Tổ sư bài kệ “Dục Phật” (Tắm Phật). Nhận thấy ngài Liễu Quán lâm cơ ứng luận rất phù hợp nên Tổ sư Tử Dung tỏ ý hài lòng và ấn chứng. Ngài chính thức đắc pháp tâm thiền.
Sau khi được Tổ sư Tử Dung ấn chứng, Tổ Liễu Quán vân du thuyết pháp độ sinh từ Phú Yên đến Thuận Hóa, suối pháp trải khắp xứ Đàng Trong.
Mùa xuân năm Nhâm Dần (1722), Tổ Liễu Quán trở về Thuận Hóa và trú tại tổ đình Viên Thông. Trong các năm Quý Sửu (1733), Giáp Dần (1734) và Ất Mão (1735), ngài liên tiếp tổ chức ba Đại giới đàn tại Thuận Hóa để truyền trì mạng mạch Phật pháp. Năm Canh Thân (1740), ngài được cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn Long Hoa. Đến mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742), ngài lại mở Giới đàn tại chùa Viên Thông, có hơn bốn ngàn đệ tử xuất gia và tại gia thọ giới.
Hương án Tổ sư Liễu Quán tại Tổ đình Thiền Tôn |
Sáng ngày 21 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1742), tại chùa Viên Thông, Tổ Liễu Quán dạy đồ chúng đem bút mực ra để viết bài kệ:
Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn mang vấn tổ tông?
(Hơn bảy mươi năm trong thế giới
Không không, sắc sắc đã dung thông
Hôm nay nguyện mãn về chốn cũ
Nào phải ân cần hỏi tổ tông?).
Vào giờ Mùi, ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất (1742), ngài viên tịch tại tổ đình Viên Thông, thọ thế 76 tuổi, với 43 năm truyền y bát, 34 năm thuyết pháp lợi sanh. Đệ tử xuất gia và tại gia có đến ngàn vạn, cao đồ có 49 người.
Đông đảo Tăng Ni, Phật tử từ các nơi đã trở về trong ngày húy nhật Tổ sư |
Tháng 2 năm Quý Hợi (1743), môn đồ tứ chúng cử hành lễ thỉnh kim quan Tổ sư nhập bảo tháp Vô Lượng Quang dưới chân núi Thiên Thai.
Cảm mến đức độ của Tổ sư, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã ban thụy là “Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng” và cho khắc bi minh tán dương công hạnh của ngài.
Ngày tốt tháng 4 năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748), môn đồ tứ chúng dựng bia ký tháp Tổ, do Hòa thượng Thiện Kế - hàng cháu trong đạo ở tại chùa Tang Liên, huyện Ôn Lăng, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa phụng soạn.