Tham dự lễ dâng hương, đảnh lễ tại bảo tháp Tổ sư Liễu Quán tại khu vực núi Thiên Thai (P.An Tây, TP.Huế) có Trưởng lão Hòa thượng Thích Giác Quang, Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN; chư vị Trưởng lão giáo phẩm thành viên Hội đồng Chứng minh; chư tôn đức Ban Thường trực Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế, Tăng Ni các tự viện cùng đồng bào Phật tử các giới đồng tham dự.
Đối trước bảo tháp Tổ sư Liễu Quán, chư Tăng Ni đã cung kính lắng nghe cung tuyên tiểu sử Đức Tổ sư Thiệt Diệu Liễu Quán, người đã khai sáng nên một dòng thiền mang đậm dấu ấn Việt Nam dưới thời chúa Nguyễn mà sự truyền thừa và sức ảnh hưởng còn tiếp nối mãi cho đến tận ngày nay.
Chư vị Trưởng lão, giáo phẩm tưởng niệm Tổ sư Liễu Quán |
Trong không khí thiêng liêng, hương trầm quyện tỏa, toàn thể hội chúng trong tinh thần của các đệ tử Tổ sư từ nhiều nơi hội về đã cung kính đảnh lễ cúng dường, tưởng nhớ thâm ân và hữu nhiễu bảo tháp.
Tổ sư họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, khánh sanh vào giờ Thìn ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi [1667] tại làng Bạc Má, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên (nay thuộc thị trấn Chí Thạnh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên.
Ngài mồ côi mẹ từ năm lên 6 tuổi [1673]. Năm 12 tuổi [1678], trong một lần được thân phụ đưa đi chùa Hội Tôn ở Phú Yên lễ Phật, được gặp Hòa thượng Tế Viên rồi xin Hòa thượng xuất gia tại đây. Học đạo tại chùa Hội Tôn được 7 năm [1680] thì Hòa thượng Tế Viên viên tịch. Sau khi lo lễ tang của Thầy hoàn tất, Ngài lên đường ra Thuận Hóa, đến núi Hàm Long đảnh lễ Giác Phong Lão Tổ xin học đạo. Năm Tân Mùi [1691], sau hơn 10 năm học đạo tại đây, và sau một năm được xuống tóc, Ngài xin phép Giác Phong Lão Tổ trở lại quê nhà Phú Yên để phụng dưỡng thân phụ đang ốm bệnh. Sau bốn năm thì thân phụ Ngài qua đời.
Hòa thượng Thích Hải Ấn cung tuyên tiểu sử Tổ sư Liễu Quán |
Năm Ất Hợi [1695], Ngài lại trở ra Thuận Hóa cầu thọ Sa-di giới tại Giới đàn chùa Thiền Lâm, do Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu tổ chức, Hòa thượng Thạch Liêm Đại Sán làm Đàn đầu truyền giới. Hai năm sau, vào năm Đinh Sửu [1697], Ngài thọ Cụ túc giới với Từ Lâm Lão Tổ. Sau khi đắc giới Cụ túc, ngài vào tịnh tu tại một ngôi miếu nhỏ dưới chân Hòn Mô (núi Ngự Bình), và đến mùa Đông năm ấy [Đinh Sửu, 1697], Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức cho trùng tu ngôi miếu thành chùa và sắc ban biển hiệu “Sắc tứ Viên Thông Am”.
Đến năm Kỷ Mão [1699], Ngài tham lễ khắp chốn tòng lâm Thuận Hóa để tìm cao tăng cầu học đạo thiền. Năm Nhâm Ngọ [1702], Ngài tìm đến chùa Ấn Tôn (tức Từ Đàm ngày nay) ở núi Long Sơn, đảnh lễ Tổ Minh Hoằng Tử Dung cầu học pháp tham thiền và được Tổ trao công án:
“Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ?”
(Muôn pháp về một, một về chỗ nào?).
Mùa xuân năm Mậu Tý [1708], Ngài trở lại chùa Ấn Tôn cầu Tổ sư Tử Dung ấn chứng. Đến mùa hạ năm Nhâm Thìn [1712], Tổ sư Tử Dung vào Quảng Nam dự lễ “Toàn viện”, nhân đó Ngài trình lên Tổ sư bài kệ “Dục Phật” (Tắm Phật). Nhận thấy Ngài Liễu Quán lâm cơ ứng luận rất phù hợp nên Tổ sư Tử Dung tỏ ý hài lòng và ấn chứng. Ngài chính thức đắc pháp tâm thiền.
Chư tôn đức hữu nhiễu bảo tháp |
Sau khi được Tổ sư Tử Dung ấn chứng, Tổ Liễu Quán vân du thuyết pháp độ sinh từ Phú Yên đến Thuận Hóa, suối pháp trải khắp xứ Đàng Trong.
Mùa xuân năm Nhâm Dần [1722], Tổ Liễu Quán trở về Thuận Hóa và trú tại tổ đình Viên Thông. Trong các năm Quý Sửu [1733], Giáp Dần [1734] và Ất Mão [1735], Ngài liên tiếp tổ chức ba Đại giới đàn tại Thuận Hóa để truyền trì mạng mạch Phật pháp. Năm Canh Thân [1740], Ngài được cung thỉnh làm Đường đầu Hòa thượng tại Đại giới đàn Long Hoa. Đến mùa xuân năm Nhâm Tuất [1742], Ngài lại mở Giới đàn tại chùa Viên Thông, có hơn bốn ngàn đệ tử xuất gia và tại gia thọ giới.
Xem video |
Sáng ngày 21 tháng 11 năm Nhâm Tuất [1742], tại chùa Viên Thông, Tổ Liễu Quán dạy đồ chúng đem bút mực ra để viết bài kệ:
Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn mang vấn tổ tông?
(Hơn bảy mươi năm trong thế giới
Không không, sắc sắc đã dung thông
Hôm nay nguyện mãn về chốn cũ
Nào phải ân cần hỏi tổ tông?).
Vào giờ Mùi, ngày 22 tháng 11 năm Nhâm Tuất [1742], Ngài viên tịch tại Tổ đình Viên Thông, thọ thế 76 tuổi, với 43 năm truyền y bát, 34 năm thuyết pháp lợi sanh. Đệ tử xuất gia và tại gia có đến ngàn vạn, cao đồ có 49 người.
Tháng 2 năm Quý Hợi [1743], môn đồ tứ chúng cử hành lễ thỉnh kim quan Tổ sư nhập bảo tháp Vô Lượng Quang dưới chân núi Thiên Thai.
Cung kính tưởng nhớ bậc Tổ sư khai sáng |
Cảm mến đức độ của Tổ sư, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã ban thụy là “Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng” và cho khắc bi minh tán dương công hạnh của Ngài.
Ngày tốt tháng 4 năm Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 [1748], môn đồ tứ chúng dựng bia ký tháp Tổ, do Hòa thượng Thiện Kế - hàng cháu trong đạo ở tại chùa Tang Liên, huyện Ôn Lăng, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa phụng soạn.
Lễ tảo tháp Tổ sư Liễu Quán là một trong số những sinh hoạt đặc thù của Phật giáo tại Cố đô, được tổ chức hàng năm vào trước ngày húy nhật Tổ sư. Vào ngày nay, chư Tăng Ni là đệ tử các đời thuộc phổ hệ truyền thừa của thiền phái Liễu Quán, từ các tự viện trên địa bàn Thừa Thiên Huế cùng tìm về phát quang, tảo tháp nhằm thể hiện lòng tri ân, tưởng nhớ ngài. Truyền thống này đã được lưu giữ bởi nhiều thế hệ Tăng Ni của Phật giáo xứ Xuân kinh.
Năm nay, ngay sau lễ tảo tháp Tổ sư Liễu Quán, Hội thảo khoa học với chủ đề “Thiền phái Liễu Quán: Lịch sử hình thành và phát triển” sẽ được khai mạc tại cơ sở II Học viện Phật giáo VN tại Huế (P.An Tây, TP.Huế), kéo dài từ ngày 18 đến 21-11-Quý Mão (30-12-2023 đến 2-1-2024), nhân tưởng niệm 281 năm Tổ sư Liễu Quán viên tịch (1742-2023).
Hình ảnh ghi nhận tại lễ tảo tháp: