Quan điểm “dĩ Nho giải Phật” trong tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh

Quan điểm “dĩ Nho giải Phật” trong tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh
NSGN - Sự tiếp xúc đầu tiên giữa hai hệ thống triết lý cổ đại lớn của phương Đông, Phật và Nho, có lẽ đã manh nha từ khi đạo Phật từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, các nhà truyền giáo nhà Phật phải vay mượn chữ Hán và cả những thuật ngữ của Nho gia vốn đã quen thuộc và được người dân xứ này chấp nhận để truyền bá đạo Phật. Và chắc chắn rằng, trong số các nhà truyền đạo của Phật giáo đó, có không ít các nhà Nho mộ Phật, nên không khỏi ảnh hưởng tư tưởng Nho gia.

 Ở Trung Hoa, đời Tống, Nho giáo truyền thống dần dần suy yếu, các đại biểu xuất sắc của nhà Nho như Trình Di, Trình Hiệu, Chu Hy, Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh… đã nhận ra Nho giáo đang đứng trước nguy cơ, thách thức tồn vong vì sự nghèo nàn và đơn điệu của học thuyết Nho gia truyền thống, không thể “cạnh tranh” với tư tưởng, học thuyết uyên thâm của Phật giáo, Đạo giáo, với những cống hiến lớn cho nền triết học đương thời và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp của xã hội, nhất là giai cấp thống trị và tầng lớp thức giả.

566437100_758b7abdfe_b.jpg

Đây chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sự ra đời của cuộc cải cách Nho giáo thời này. Nhưng có một điều không thể không nói đến là, tuy các nhà Nho một mặt, gióng trống phất cờ đả kích các quan điểm mà họ cho là phi đạo đức của Đạo giáo và Phật giáo, mặt khác họ kế thừa các tư tưởng triết học uyên thâm của hai đối thủ, khéo léo tiếp thu, tinh tuyển và dung hợp các yếu tố này vào trong hệ thống tư tưởng của họ để tạo thành học thuyết tân Khổng giáo với chủ trương “tìm hiểu sự vật” của dòng chính thống mà đại biểu là Trình Di, Trình Hiệu, Chu Hy và dòng không chính thống chủ trương “tìm hiểu về tâm” mà đại biểu là Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh.

Ở Giao Châu (Việt Nam) vào khoảng thế kỷ thứ II, nhà Phật học lừng danh Mâu Bác (Mâu Tử) với tác phẩm kinh điển Lý hoặc luận đã tập trung chủ yếu vào giải quyết mối quan hệ giữa Phật và Nho. Quan điểm của ông là, mặc dù Phật và Nho có một số phạm trù mới nhìn thì thấy rất khác biệt, vì lý do xuất xứ, không gian và thời gian, nhưng sự khác nhau đó chỉ thuộc về phương tiện, chứ cứu cánh vẫn đồng nhất: “Châu dư dị lộ, câu tứ hành dã” (Thuyền - xe không đi chung đường, nhưng đều đưa người đến chốn). [dẫn lại Nguyễn Đăng Thục (1974) Phật giáo Việt Nam, tr 287].

Tư tưởng Phật Nho nhất trí được kế thừa và liên tục phát triển qua nhiều thời đại bởi nhiều giới thức giả từ Thiền sư, Đạo sĩ, Nho sĩ cho đến vua, quan như: Thiền sư Viên Chiếu, vua Lý Nhân Tông, vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Tuệ Trung thượng sĩ, Thiền sư Hương Hải, nhà Nho bác học Lê Quý Đôn, hai cha con nhà Nho sùng Phật và Đạo Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, tể tướng Trịnh Tuệ, Thiền sư Toàn Nhật, sĩ phu Nguyễn Đình Chiểu, sư Giác Lâm…

Trần Thái Tông lý giải sự tương đồng của Phật - Nho về mặt tích đức, hành  thiện như sau: “Nho điển thi ân báo đức, Đạo kính ái vật hiếu sinh, Phật duy giới sát thị trì (Sách Nho dạy thi ân bố đức, kinh Đạo giáo dạy yêu mọi vật, quý sự sống, đạo Phật dạy giữ giới không sát sinh) [Khóa hư lục ‘giới sát sinh văn’, tr. 49, Nguyễn Đăng Thục dịch].

Thiền sư Hương Hải luận chỗ giống nhau của Phật, Nho ở sự thâm sâu, uyên áo bằng hai câu thơ đầy hình tượng:

Nho nguyên đãng đãng đăng nhi khoát,

Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm”.

(Rừng Nho bát ngát vào thêm rộng,

Biển Phật mênh mông tới càng sâu).

[Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2, Kiến văn tiểu lục (1977), tr.409 - 410, NXB. KH-XH, HN]

Thiền sư Trí Thiền bày tỏ quan điểm Phật Nho nhất trí, nhưng nhấn mạnh rằng, chỉ có Phật giáo mới thật sự thoát khổ được: “Như Lai lục ngữ cái bất hư thuyết. Thế gian chư pháp hư huyễn bất thực, duy đạo vi thực, ngã phục hà cầu. Thả Nho gia khả thuyết quân thân phụ tử chi đạo, Phật pháp khả ngôn Bồ-tát, Thanh văn chi công. Nhị giáo tuy thù, kỳ quy tắc nhất. Nhiên, xuất sinh tử, nhược đoạn hữu vô kế phi Thích tắc bất năng dã”. (Lời nói của Như Lai chẳng phải là lời nói suông. Các pháp ở trên thế gian này đều là hư ảo, không thực, chỉ có đạo mới là thực, ta còn cần gì nữa; vả lại, Nho gia nói đạo vua tôi, cha con; Phật pháp nói về công đức của các vị Bồ-tát, Thanh văn. Hai giáo tuy có chỗ khác nhau nhưng quy về một mối mà thôi. Chỉ là, muốn vượt qua nỗi khổ sinh tử, dứt khỏi sự cố chấp hữu vô, ngoài Phật giáo ra thì không thể nào đạt được). [Thiền uyển tập anh, bản Vĩnh Thịnh, ký hiệu A.3144, tờ 6].

Đến cuối thế kỷ XVIII, năm 1796, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh ra đời do Hải Lượng đại Thiền sư Ngô Thì Nhậm và một số pháp hữu, đệ tử sáng tác tại thiền viện Trúc Lâm, phường Bích Câu, Hà Nội là một tác phẩm luận thuyết triết học mang đậm nét áo bí của tư tưởng phương Đông, với tông chỉ kế thừa, xiển dương tinh thần vô ngã, nhập thế cứu đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông sáng lập, thể hiện rõ trên tiêu đề, nhưng cảm hứng chủ đạo vẫn là xu hướng dung hợp ba nguồn tư tưởng Phật - Đạo - Nho nói chung, “dĩ Nho giải Phật” nói riêng. 

Từ khoảng nửa cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, những nhân sĩ của Nho gia dần dần chiếm vị trí quan trọng trên chính trường, Nho giáo ngày càng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, tình cảnh nước ta vô cùng đen tối, các thế lực phong kiến xâu xé lẫn nhau, nội chiến liên miên giữa các thế lực của nhà Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, rồi phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại các thế lực phong kiến, đã làm cho nhân dân khốn khổ, cơ cực không bút mực nào tả xiết. Lúc này tư tưởng Phật và Nho, cụ thể là “cư Nho mộ Phật” vẫn ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội, Nếu ở đời Trần, tư tưởng Phật giáo Thiền tông Trúc Lâm là tư tưởng chính thống, thì thời kỳ này luân lý Nho giáo chiếm ưu thế. Phải chăng, chính sự khinh hay trọng tư tưởng Phật hoặc Nho là một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ quả là sự hưng hay suy của dân tộc ta?

Vấn đề “Khu Thích dĩ nhập Nho” trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh được Thị trung ngự sử, Thuỵ Nham hầu Phan Huy Ích khẳng định trong Đại chân viên giác thanh tự như sau: “Thuyết tân thanh của ông, bọn tục Nho nghe thấy chắc sẽ đâm ra nghị luận, mà ví ông như Xương Lê (Hàn Dũ) trước thì bài Phật, sau lại nghiêng theo. Tượng Sơn chủ trương tịnh chính là bắt gốc ở đạo Thiền. Đem những lời ức đoán tầm thường như thế để phẩm bình ông thì làm sao mà đánh giá được sở học của ông! Tận tính nhi cùng lý, khu Thích dĩ nhập Nho, ông đã khiến cho tám bộ Phạn vương (Phật) không ra ngoài cung của Tố vương (Khổng Tử).           

Phan Huy Ích còn luận giải rõ: “Đạo lớn phát ra tự trời, lưu hành khắp vũ trụ, phân tán thành vạn vật. Cái thể thì đồng, nhưng cái dụng thì dị. Đồng là gốc, còn dị là ngọn, xem bề ngoài thì tưởng như khác đường khác nẻo, nhưng thống hội lại cho đến chỗ cực kỳ tinh vi thiết yếu thì chẳng có gì là vượt ra ngoài đạo lớn kia được. Giáo lý của Thích Ca tuy nói là không tịch hư vô, nhưng đại yếu vẫn là trừ bỏ hết mọi chướng lũy, thấy rõ chân như. Cho rằng minh tâm kiến tính là việc cần kíp nhất, nếu đem  so sánh với học thuyết thành ý trí tri của nhà Nho ta thật chẳng có gì trái ngược”. [Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 3, trang 141].

Chúng tôi cho rằng, xu hướng chủ đạo của tác phẩm là “dĩ Nho giải Phật” (dùng triết lý Nho gia để lý giải Phật giáo) chứ không phải “khu Thích dĩ nhập Nho” như cách nghĩ của Phan Huy Ích.

Tăng Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở phân tích chỗ tương đồng của Nho và Phật trên cơ sở dùng lý thuyết của Nho gia đã giải thích Phật giáo như sau: “Vạch cái lý huyền diệu, mở cái tâm sâu kín để trỏ cho người ta, ấy là công việc thứ nhất của Thiền gia. [thế mà] Phải dùng luận thuyết của nhà Nho để luận thuyết điều đó, là vì đạo chỉ có một mà thôi. Chỗ huyền diệu của Nho tức Thiền, chỗ tác dụng của Thiền tức là Nho. Gạt bỏ văn từ kỹ xảo [Nho] và giới hạnh tầm thường [Phật] mà tìm cái gọi là đạo, thì [Nho và Phật] có thể nhất quán được”. [Sách đã dẫn, trang 149].

Hải Lượng thiền sư dung hòa cái nghĩa bình đẳng của Phật gia vào cái nghĩa đại đồng của Nho gia: “Khổng Tử tịch tĩnh bất động, nhưng có tác dụng với sự cố trong thiên hạ. Đại Thế Chí Bồ-tát vào trong vô lượng nghĩa, ở trong tam muội, thân tâm bất động, phóng ánh sáng bạch hào nơi lông mày chiếu rọi một vạn tám nghìn thế giới ở Đông phương khắp hết mọi chỗ, như thế gọi là Pháp giata nghe Khổng Tử nói: Chim muông ta không thể cùng bầy được, nếu không bạn bè với người thì ta còn bạn bè với ai?. Kinh Liên hoa nói rằng: Ta xem hết thảy bình đẳng, không có lòng yêu này ghét nọ. Ta không tham cái gì cũng không có cái gì hạn định và trở ngại ta cả”. [Sđd, trang 174].   

Nhà Phật nói chúng sinh bình đẳng trong tính bản thể với ý nghĩa tuyệt đối bao gồm Phật, Trời, Thần, Thánh, người, và muông thú. Phàm các loài hữu tình có mạng sống, biết khổ đau đều là chúng sinh theo lý nhà Phật. Lý bình đẳng dựa trên cơ sở “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật”. [Kinh Phạm Võng, Thích Trí Tịnh dịch, NXB. TP.HCM, trang 13].

Khả năng tính thành Phật chính là nền tảng vững chắc nhất, mang giá trị nhân văn cao nhất với ý nghĩa tuyệt đối nhất về sự bình đẳng vô giới hạn giữa mọi chúng sinh.

Trong chương Nhất thanh, phần thanh dẫn, Hải Huyền Ngô Thì Hoành dung hợp Nho và Phật trong nghĩa chữ Nhất: “Nhất là tinh chất, không tạp, hợp tất cả muôn việc trong thiên hạ lại làm một. Ý nghĩa ấy bao gồm rất rộng. Thái Cực tóm âm dương lại làm một, Âm Dương tóm ngũ hành lại làm một. Đạo lý vần xoay, đi đâu chẳng phải là một (Nhất). Nhà Nho nói: ‘lý không có hai bên cùng phải’ không có hai phải tức là Nhất (một). Thích có bất nhị pháp môn, bất nhị cũng là Nhất (một). Nho có cái gọi là nhất cá lý, Thích có cái gọi là nhất thiết pháp, nhất nọ với nhất kia đều là Nhất cả. Vì vậy cho nên làm Hoàng đế, làm Vương bá cũng là một Nho ấy, làm Thánh Thần, làm ma quỷ cũng là một Thích ấy, làm Nho hay làm Thích cũng là một đạo ấy. Đạo ở trong trời đất, chia ra thì có muôn cạnh khác nhau, tóm lại thì không có hai khía. Chương này đem Nho và Thích đúc lại làm một, đó là chỗ tâm đắc và nhất quán của Đại thiền sư, phát huy nó ra làm một trong hai mươi bốn thanh, là một áng văn chương cao cả, một pho nghị luận lớn  lao, nào phải lấy ống hóp mà nhìn, lấy vỏ hến mà đong được… Trời được cái nhất cho nên trong, đất được cái nhất cho nên an, Thánh nhân được cái nhất mà thiên hạ hòa bình”. [Sđd, trang 187, 188].

Hải Lượng Ngô Thì Nhậm còn dùng lý luận của các phạm trù quân tử và tiểu nhân của Nho gia nhằm giải thích rõ tư tưởng vô ngã, vị tha của Phật giáo: “Nho thì có Nho quân tử, Nho tiểu nhân; Thích thì có Thích quân tử, Thích tiểu nhân. Nho quân tử thì vị kỷ; Nho tiểu nhân thì vị nhân. Thích quân tử thì vị nhân, Thích tiểu nhân thì vị kỷ… chữ Kỷ và chữ Nhân trong luận chứng của nhà Nho là đứng về mặt Tâm tính mà nói, Thích quân tử xả kỷ (bỏ mình) để tế độ người, Thích tiểu nhân đe dọa người để nuôi mình (kỷ), đó là đứng về mặt Lý và Dục mà phân Nhân và Kỷ. Chữ Nhân và Kỷ của đàng này (Phật) so với chữ Nhân và Kỷ của đàng kia (Nho) thì công phu, tác dụng không giống nhau, nhưng quy kết về tâm tính thì là một mà thôi. Vì vậy, cho nên nhà Nho nói Chính tâm, nói Thành tính, nhà Phật nói Minh tâm, nói Kiến tính đều là có nghĩa Đạo của người quân tử rộng khắp mà kín đáo (Quân tử chi đạo phí nhi ẩn, Lễ Ký, Trung dung)”. [Sđd, trang 177].

Quên mình vì mọi người (vô ngã, vị tha) là một trong những đặc trưng của tư tưởng Phật giáo, hàm nghĩa rất sâu, đại ý là không còn chấp ngã, không còn chấp vào cái Ta và cái sở hữu của Ta. Chỉ có đạt tới cảnh giới Vô ngã (quên mình) thì mới thực sự thực hành được hạnh Vị tha (vì người khác) một cách hữu hiệu và triệt để nhất. Tu pháp môn Vô ngã là con đường dẫn đến cái đích Minh tâm, Kiến tính. Cũng như Chính Tâm, Thành tính là cái đạo, là phẩm hạnh cần trau giồi của người quân tử theo cách nói của Nho gia mới đạt đến cảnh giới biết mệnh trời được. Nhưng ở đây, Nho gia nói Chính tâm, Thành tính là nói về cái Tướng, cái Dụng, còn nhà Phật luận Minh tâm, Kiến tính là đi đến chỗ triệt ngộ Chân tâm, thể nhập Tự tính. Nếu không thấu rõ điểm này, sẽ dễ ngộ nhận về sự tương đồng giữa chúng.

Ở chương Biểu lý thanh, Hải Lượng Ngô Thì Nhậm còn gom cả yếu nghĩa kinh Lăng già, một bộ kinh Đại thừa Phật giáo, vào trong Chu Dịch: “Phật diễn kinh Lăng già, tức cũng là giảng cái huyền hư của Chu Dịch. Cương yếu của đạo lý là ở trong Lăng già. Lăng già giảng chữ Tinh rất rạch ròi. Đại để Phật gia thích dùng chữ sâu kín, không có sức hiểu sắc bén thì không hiểu được, mà đã hiểu được thì hiểu rất sâu sắc”.

Hải Lượng thiền sư dùng lý luận nhà Nho giải thích thuyết Luân hồi của nhà Phật để mọi người dễ hiểu: “Luân (cái bánh xe) cho nên Hồi (xoay vòng), cũng như nhà Nho nói Tuần hoàn, vì Hoàn (cái vòng) cho nên Tuần (ven theo), không phải cái vòng thì không xoay. Nhà Phật nói Luân (cái bánh xe), nhà Nho nói Hoàn (cái vòng). Luân và Hoàn là đạo trời vậy… Tròn là cái thể của trời, nhật, nguyệt, ngũ tinh đều tròn, cho nên chu lưu, vận hành được. Thích Ca Mâu Ni chuyển cái bánh xe Vô ngại, Khổng Tử đi xe vòng quanh các nước. Đi xe vòng quanh tức cũng là luân hồi... nhà Nho có chữ Biến thông, Cảm thông, Hội thông; nhà Phật có chữ Thần thông, cùng một nghĩa như nhau”. [Sđd, trang 217].

Thuyết Luân hồi của nhà Phật chủ yếu đề cập đến vấn đề mọi chúng sinh sau khi chết đi, tùy theo nghiệp thiện hay ác mà đi đầu thai từ kiếp này qua kiếp khác, liên miên bất tận như vậy. Phật giáo cho rằng, chúng sinh do si mê làm nhiều nghiệp ác nên phải trôi giạt trong sáu nẻo (trời, a-tu-la, người, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục) chịu khổ vô cùng. Chỉ có tu hành tinh tấn và đúng phương pháp mới có thể đạt được an vui, giải thoát, khỏi bị luân hồi đau khổ. Nhưng thuyết Luân hồi của nhà Phật rất sâu xa, khó hiểu, liên quan đến quá khứ, tương lai và những vấn đề khó lý giải bằng tri thức thông thường. Nhất là rất dễ khiến cho mọi người hiểu nhầm, nên thiền sư hiện thực hóa nó trong sự đối sánh với khái niệm Tuần hoàn của nhà Nho.

Càng đọc kỹ Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, chúng ta càng thấy rất rõ ràng rằng, nội dung chủ đạo xuyên suốt tác phẩm chính là tư tưởng “dĩ Nho thích Phật”. Vì sao trong giai đoạn lịch sử này, Hải Lượng thiền sư và các pháp hữu phải làm như vậy?

Vì trong thời này, tầng lớp Nho sĩ rất thịnh, chiếm vị trí quan trọng trong chính trường, hơn nữa, một bộ phận lớn Nho sĩ, do không thông hiểu triết lý nhà Phật và có sẵn thành kiến cố chấp, nên kịch liệt đả kích Phật giáo, đến nỗi Lê Quý Đôn phải lên tiếng ngăn cản. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho nguyên khí quốc gia suy yếu, dẫn đến nội chiến, loạn lạc trong một thời gian dài.

Có thể nói rằng, với tác phẩm vô tiền khoáng hậu Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử văn học Việt Nam, Hải Lượng thiền sư Ngô Thì Nhậm đã dùng ngôn từ nghệ thuật truyền tải tài tình những phạm trù triết lý uyên áo và khô khan của hai hệ tư tưởng cổ đại phương Đông nói chung, xu hướng dĩ Nho giải Phật (dùng triết lý nhà Nho để giải thích Phật giáo) nói riêng, một cách trí tuệ, có hệ thống, có lý luận mà xưa nay hiếm người làm được. Đặt tác phẩm trong thời đại lịch sử như vậy, chúng ta mới thấy rõ tâm huyết và trí tuệ của các tác giả mà đại diện là Ngô Thì Nhậm. Và cũng chỉ như thế chúng ta mới thấy hết được vai trò và giá trị không thể thay thế được của tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh trong văn học Phật giáo cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. 

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.