Phước huệ song tu của người Phật tử tại gia

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
0:00 / 0:00
0:00
NSGN - Phước huệ song tu là phương thức tu tập và hành trì cần phải có đối với bản thân mỗi người Phật tử tại gia, ngay trong cuộc sống hiện tại, mục đích là để khai trí, đạt được an lạc và hạnh phúc.

Nhưng ở một số người, do nhận thức sai hoặc chưa có nhận thức đầy đủ, cho nên đã có sự hiểu sai, dẫn đến chỉ chuyên tu một mảng, phước hoặc huệ. Theo đó, những người chỉ lo gieo trồng ruộng phước thường mong cầu cho cuộc sống ở hiện tại và tương lai được đủ đầy về tài sản, dư dả về của cải vật chất và tận hưởng trọn vẹn sự sung túc đó; cũng có một số người chỉ chăm về tu huệ, như thế cũng chưa đủ bởi vì đời sống con người cần phải có các điều kiện về giá trị vật chất cơ bản và tối thiểu nhất, để mỗi người có thể tự mình gieo phước như bố thí, cúng dường, ủng hộ và quyên góp cho các hoạt động nhân đạo, Phật sự, thiện sự, an sinh xã hội... Do vậy, người Phật tử tại gia cần phải thấy rõ được vai trò và ý nghĩa quan trọng cũng như sự cần thiết phải kết hợp của việc tu phước và tu huệ.

Tu huệ của người Phật tử tại gia

Với sự phát triển của đời sống, con người ngày càng có nhu cầu cao trong vấn đề tiếp cận với tri thức của nhân loại, trau dồi và phát triển trí tuệ. Đức Phật chủ trương “Y trí bất y thức”, nghĩa là người học Phật cần nương tựa vững chắc vào “trí” (trí tuệ Bát-nhã) hơn là thức (sự hiểu biết của thế gian); coi trọng và đề cao trí tuệ:“Duy tuệ thị nghiệp”, xem trí tuệ là nền tảng, là yếu tố quan trọng hàng đầu, là “sự nghiệp” của người học Phật và tu Phật. Đức Phật từng sánh ví trí tuệ như ngọn đèn soi sáng, dẫn đường đưa lối đi đến sự giác ngộ và giải thoát. Trong kinh Chánh tri kiến, Đức Phật đã dạy rằng: “Thưa các hiền giả, nói tóm lại là, nhờ có chánh kiến về thiện, bất thiện, cũng như chánh kiến về bốn chân lý, và biết tuệ tri bốn chân lý Thánh vào việc ăn uống, cũng như ứng dụng trong từng chi phần của mười hai duyên, hành giả có thể dứt trừ tận gốc khuynh hướng tham dục, khuynh hướng sân hận, khuynh hướng quan điểm - thái độ ‘tôi là’, nhổ gốc vô minh, hiển hiện tuệ giác, hết mọi khổ đau ngay trong hiện tại. Đây chính là cách các vị thánh đệ tử, người có chánh kiến, thấy biết chánh trực, tin pháp tuyệt đối, đạt được nhận thức chánh kiến nhiệm màu”.1

Đến với đạo Phật, với nhiều con đường, cách thức, phương tiện và lộ trình khác nhau, song giá trị nhận lại là một kho tàng quý báu với một hệ thống triết lý về trí tuệ, đạo đức và các giá trị lợi lạc khác thuộc nhiều khía cạnh của đời sống, dành cho mọi đối tượng tầng lớp, độ tuổi khác nhau.

Tu huệ của người Phật tử tại gia được thể hiện qua nhiều cách thức thực hiện khác nhau. Một trong số đó phải kể đến là tầm quan trọng của việc học Phật bài bản. Ngày nay, mặc dù chưa phải là tất cả, nhưng rất nhiều cơ sở tự viện khắp cả nước đã mở các lớp giáo lý, từ căn bản đến nâng cao. Thông qua các khóa học ngắn hạn, trung bình thời gian từ hai đến ba tháng/khóa, người Phật tử sẽ tiếp cận và nắm chắc những kiến thức nền tảng, trang bị cho mình sự hiểu biết một cách chánh kiến, sâu sắc, đầy đủ nhất về Đức Phật và đạo Phật. Việc học Phật, tìm hiểu về giáo lý không chỉ dành cho giới trí thức như một số quan niệm trước kia, mà mọi tầng lớp cần phải tiếp cận và học hỏi, đặc biệt ở các vùng thôn quê - những nơi mà việc phổ cập và học Phật vốn còn nhiều khó khăn, trở ngại do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ chủ quan cho đến khách quan.

Học Phật và tìm hiểu giáo lý một cách nghiêm túc, có lộ trình, dưới sự hướng dẫn của quý giáo thọ sư, Tăng đoàn là cách tốt nhất để xóa bỏ các hoài nghi, tà kiến, mê tín dị đoan..., góp phần phát huy bản chất giá trị của đạo Phật. Ngoài ra, hiện nay, nhu cầu học Phật của người Phật tử tại gia được đẩy lên tầm cao hơn. Tại học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi năm hàng trăm nam nữ cư sĩ Phật tử đã đăng ký và theo học chương trình đào tạo cử nhân Phật học hệ từ xa. Với hình thức học phần lớn thời gian là online, vào cuối tuần nên rất thuận lợi cho đối tượng là Phật tử tại gia. Sau bốn năm học, người học sẽ được cung cấp đầy đủ về kiến thức liên quan đến đạo Phật, để từ đó người Phật tử tại gia có nhiều cơ hội hơn trong vấn đề đóng góp cho xã hội. Hiện nay, học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở cấp học viện duy nhất trong bốn học viện trên cả nước có đào tạo chương trình cử nhân Phật học hệ từ xa dành cho đối tượng cư sĩ. Học viện đang đào tạo khóa thứ IX. Trong thời gian đến, như thường niên, học viện sẽ tiếp tục khai giảng tuyển sinh khóa mới. Đây là cơ hội quý, là cánh cửa tri thức mà người Phật tử tại gia nên tiếp cận và khám phá. Đặc biệt, mới đây, vào ngày 29-1-2024, Ban Giáo dục Phật giáo tỉnh Bình Định và Trường Trung cấp Phật học tỉnh Bình Định đã cùng bàn và thảo luận về kế hoạch tổ chức lớp trung cấp Phật học cho cư sĩ - Phật tử. Nếu dự thảo này được thông qua thì đây sẽ là một bước ngoặt, khi lần đầu tiên trên cả nước có một trường trung cấp Phật học mở lớp đào tạo giảng dạy về Phật học cho Phật tử tại gia.

Đức Phật cũng đã khuyên người có trí phải học Phật, nghe pháp:

Người có trí thích nghe Phật pháp

Gìn an vui, hạnh phúc, thong dong

Như hồ sâu thẳm, nước trong

Không gì khuấy đục

cõi lòng tịnh thanh.2

Như vậy, tu huệ của người Phật tại gia là nhằm phát triển trí tuệ (tuệ giác), là điều kiện giúp bản thân nhận rõ về bản chất của thế giới và con người. Sự phát triển và nhận thức đó gọi là minh triết. Và sự minh triết với trí tuệ đó không phải ngẫu nhiên mà có, cũng chẳng phải được ban tặng, mà đó phải là kết quả của cả một quá trình tu học với tinh thần tự học, nghiền ngẫm và chiêm nghiệm cũng như thực hành, áp dụng. Để có được sự tu về trí huệ, người Phật tử tại gia cần phải có sự tích hợp giữa văn huệ, tư huệ và tu huệ.

Tu phước của người Phật tử tại gia

Song song với việc tu huệ thông qua trau dồi kiến thức, mở mang hiểu biết, khai phóng trí tuệ, thì người Phật tử tại gia cũng cần tu phước. Tu phước là hướng đến tha nhân với những hành động ý nghĩa và cao quý khi mang lại các giá trị lợi lạc cho con người và xã hội trên nhiều phương diện khác nhau. Trong kinh Phước đức, Đức Phật đã nêu ra mười phương pháp tu phước, tiêu biểu như:

Phương pháp thứ năm là:

Sống chân thật, bố thí,

Giúp xã hội, người thân,

Nhân cách luôn cao thượng,

Hành xử như chân nhân

Phương pháp thứ sáu là:

Quyết không làm điều ác,

Không ma túy, rượu say.

Thích việc lành, đạo đức,

Theo đuổi, sống thẳng ngay.

Phương pháp thứ bảy là:

Sống lễ độ, khiêm cung,

Biết ơn và đền đáp,

Không tham và biết đủ,

Siêng học pháp cao sâu.3

Ngày nay, tu phước của người Phật tử tại gia được thể hiện qua nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Nhưng dù theo cách nào thì cũng nhằm hướng đến mục đích phụng sự tha nhân theo tinh thần “Phụng sự nhân sinh - Tốt đời đẹp đạo - Sáng soi Phật pháp - Hộ quốc an dân”, đóng góp trên nhiều phương diện cho xã hội tùy theo chuyên môn mỗi người như trong lãnh đạo, giáo dục, chính trị, kinh doanh… Bên cạnh những đóng góp hùn phước về vật chất, cúng dường cho các hoạt động Phật sự của các cơ sở tự viện hay các chương trình thiện nguyện, từ thiện khác trong xã hội, thì người Phật tử tại gia có nhiều cách khác trong việc dấn thân phụng sự, như đóng góp về thời gian, công sức, chất xám, sự nhiệt huyết không mệt mỏi. Người Phật tử tích cực làm các việc nghĩa việc thiện như đăng ký hiến máu, đăng ký hiến mô tạng để cứu người, đăng ký hiến xác cho y học. Đức Phật gọi đây là cách bố thí nội tài đầy nhân văn và cao quý. Với lòng từ bi và vị tha của người con Phật, người Phật tử tại gia luôn san sẻ tình yêu thương, giúp đỡ người khác trong những lúc khó khăn và hoạn nạn trên tinh thần truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam “lá lành đùm lá rách”.

Như vậy, để có phước thì người Phật tử phải gieo và chăm sóc, vun vén và bòn phước. Phước của con người có nhiều phương diện. Việc trao đi và nhận lại phước tùy thuộc vào từng suy nghĩ, hành động và việc làm của mỗi chúng ta. Tu phước phải dựa trên quy luật của nhân - quả. Gieo trồng nhân lành thì sẽ gặt được quả ngọt hoa thơm, tất nhiên để có quả ngọt hoa thơm, người Phật tử phải gieo đúng với mục tiêu đúng, phương pháp đúng, nỗ lực, kiên trì và tinh tấn: “Này các đệ tử, nếu có người nào thành tựu đầy đủ các phước thế gian, phước xuất thế gian, thì công đức lớn không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. Cũng như năm sông tuôn về biển cả, gặp nhau ở biển, khoảng giữa của chúng, nước nhiều vô số, không thể đong đếm, không thể hạn lượng, không thể biết hơn. Năm sông lớn đó bao gồm sông Hằng, sông Ya-mu-nā, sông Sa-ra-bhū, sông Ma-hī lớn và sông A-ci-ra-va-tī lớn”.4

Phước huệ song tu trước sau luôn là kim chỉ nam, là phương tiện, nhưng cũng là cứu cánh trong tu học và phụng sự của người Phật tử tại gia. Không thể tu phước hay tu huệ một cách đơn lẻ, tách biệt. Sự kết hợp và song hành với nhau giữa hai yếu tố phướchuệ sẽ góp phần mang lại cuộc sống tốt đẹp, với nhiều an lạc hữu ích, lan tỏa được năng lượng tích cực và an lành cũng như mang Chánh pháp đến với mọi người. Điều này cũng góp phần gìn giữ và phát huy, lan tỏa những lời chỉ dạy quý báu, những giá trị cao quý mà Đức Phật đã để lại.

_______

(1)Thích Nhật Từ (2018), Kinh Phật cho người tại gia, kinh Chánh tri kiến, NXB.Hồng Đức, tr.473-474.

(2)Thích Nhật Từ (2018), Kinh Phật cho người tại gia, kinh Lời vàng Phật dạy, phẩm Hiền trí, NXB.Hồng Đức, tr.102.

(3)Thích Nhật Từ (2018), Kinh Phật cho người tại gia, kinh Phước đức, NXB.Hồng Đức, tr.260-261.

(4)Thích Nhật Từ (2018), Kinh Phật cho người tại gia, kinh Phước thế gian, NXB.Hồng Đức, tr.245-246.

(NS337)

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.