Nỗ lực tìm hiểu về Phật giáo sử Đông Nam Á

NSGN - Cụm từ Phật Giáo Sử Đông Nam Á ở đây là chỉ cho Lịch sử truyền nhập và phát triển của Phật giáo Nam tông tại các nước thuộc Đông Nam Á như Thái Lan, Miến Điện (Myanmar), Campuchia, Lào… kể cả Tích Lan (Srilanka) và Indonesia.

CS ChanhTri.jpg
Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền

 

Đây là một lãnh vực mà cho đến hiện tại (Cuối năm 2018), giới nghiên cứu Phật học của Việt Nam còn bỏ trống, tức chúng ta chưa có một bộ sách biên soạn công phu và đầy đủ về vấn đề vừa nêu trên, ngoại trừ chúng ta đã có được bản Việt dịch tác phẩm Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2: Phật Giáo Nam Truyền rất có giá trị của Pháp sư Tịnh Hải(1). Do đó, trong bài viết này, chúng tôi xin điểm qua một số nét chính nơi tập sách Phật Giáo Sử Đông Nam Á của Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền (1905-1973) để thấy rõ Nhà nghiên cứu Phật học thuộc lớp tiền bối này đã có những cố gắng, những nỗ lực nhằm tìm hiểu tóm lược về Phật Giáo Sử Đông Nam Á.

Sách Phật Giáo Sử Đông Nam Á dày hơn 210 trang, nội dung gồm các phần:

* Chương I: Sự Mở Rộng của Phật giáo.

* Chương II: Nghi vấn về vùng Suvarnabhumi. Hai chương này có thể xem như là Phần Mở Đầu (Phật Giáo Sử Đông Nam Á. NXB.Tôn Giáo. 2012. Tr.9-20).

* Lịch Sử Phật Giáo Miến Điện. (Sđd. Tr.21-35).

* Lịch Sử Phật Giáo Nam Dương: Indonesia. (Sđd. Tr.36-68).

* Lịch Sử Phật Giáo Cam Bốt. (Sđd. Tr.69-109). 

* Lịch Sử Phật Giáo Ailao. (Sđd. Tr.110-142).

* Lịch Sử Phật Giáo Thái Lan. (Sđd. Tr.143-166) 

* Lịch Sử Phật Giáo Chiêm Thành. (Sđd. Tr.167-185). 

* Lịch Sử Phật Giáo Tích Lan. (Sđd. Tr.186-215).

 Chúng tôi xin lần lượt nêu dẫn rõ hơn về từng phần. 

Phần mở đầu 

1- Chương I: Sự Mở Rộng của Phật giáo


Phần Mở Đầu của sách, tác giả đã ghi nhận về sự Mở Rộng của Phật giáo ở Ấn Độ như sau: “Phật giáo bắt đầu vào thời đại Maurya (Vua A Dục) lan tràn khỏi vùng sông Hằng là nơi phát xuất, để lần hồi mở rộng phạm vi ảnh hưởng đến các vùng lân cận và rốt cuộc là khắp nước Ấn, kể luôn Tích Lan (Srilanka). Sự xâm lược êm thấm này đã để nguyên những cơ sở Bà-la-môn giáo và những lối tu hành của dân tộc Ấn, bởi vì những cố gắng của các nhà truyền giáo (Phật giáo) ít nhắm vào việc trừ bỏ những gì đã có cũng như những tin tưởng của dân chúng, mà nhắm vào việc phổ biến những cái ấy cho thích ứng với giáo lý của Đức Phật.” (Phật Giáo Sử Đông Nam Á. Sđd. Tr.9).

Tiếp theo, tác giả nói đến Hai nguồn tài liệu, là cơ sở cho sự tìm hiểu về việc Phật giáo đã truyền ra ngoại quốc như thế nào. Đó là Niên sử của Tích Lan và Khoa khảo cổ Tân cựu. Về Nguồn tài liệu 1, tác giả đã căn cứ theo đấy để nói đến sự kiện vua A Dục và Tôn giả Moggaliputta-Tissa, sau cuộc kết tập kinh điển lần thứ 3 vào năm 236 PL (nhằm năm 250 trước TL) đã cử 9 phái đoàn truyền giáo đi đến 9 nơi, đáng chú ý nhất là 2 phái đoàn 8 và 9:

* 8: Hai Tỳ-kheo Sona và Uttara được cử sang vùng Suvarnabhùmi(2)


* 9: Tỳ-kheo Mahinda, con Vua A Dục, có sứ mạng sang hóa độ xứ Lankà (Tích Lan). Cùng đi với Mahinda có 4 Tỳ-kheo khác là Itthiya, Utthiya, Sambala và Chadasàla (Sđd. Tr.11). Gần 5 trang sách còn lại, tác giả dành để biện dẫn, ghi nhận về giá trị của các sử liệu kể trên. 

2- Chương II: Nghi vấn về vùng Suvarnabhùmi

 Vùng Suvarnabhùmi là nơi chốn đi đến của Phái đoàn truyền giáo thứ 8 do hai vị Tỳ-kheo Sona và Uttara đảm nhận như vừa nêu ở trên. Cư sĩ Chánh Trí đã dẫn ra một số tài liệu và kết luận theo như Tự Điển Nhân Danh Địa Danh Pali (Dictionary of Pali proper - Names) của Malalasekera: “Tích Lan và Suvarnabhùmi cách nhau bảy trăm hải lý và nếu gặp gió xuôi, thuyền phải mất bảy ngày đêm. Suvarnabhùmi thường được nhận là miền Hạ Miến, rất có thể là 2 quận Bagan và Moulmein. Cũng có thể tính luôn cả miền duyên hải Ngưỡng Quan (Rangoon) chạy dài tới Tân Gia Ba (Singapore). Thị trấn quan trọng nhất của Suvarnabhùmi là Sudhammanagara nay là Thaton, ở vàm sông Sittaung”. (Sđd. Tr.19).


 Pháp sư Thánh Nghiêm (1930-2009) trong sách Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1, phần viết về Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, chương 4: A Dục Vương và Đại Thiên… thì ghi rõ: “* 8: Tu Na Ca (Sonaka) và Uất Đa La (Uttana) được phái đến Đất Kim (Suvarnabhùmi) tức Miến Điện ngày nay. (Xem: Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1 của Pháp sư Thánh Nghiêm. Nhiều người dịch. NXB.Hà Nội. 1995. Tr.82)(3).


Phần: Lịch sử Phật giáo Miến Điện (Myanmar)


Giới thiệu tóm tắt về Lịch sử Phật giáo Miến Điện gồm các mục: 

* Lời Nói Đầu: Nêu: Chưa có thể trả lời một cách dứt khoát câu hỏi: Phật giáo đã du nhập vào Miến Điện từ lúc nào?

Căn cứ theo tài liệu do Truyền thống và Kinh sử cung cấp, đại lược có thể chia lịch sử ấy làm 2 phần: Phần thứ nhất: Là Thời Kỳ trước phái đoàn truyền giáo của 2 Đại đức Sona và Uttara. Phần thứ hai: Là Thời Kỳ từ đấy cho đến bây giờ (Sđd. Tr.21).
- Thời Kỳ thứ nhất:

+ Nêu ra 2 truyền thuyết về việc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng đi đến đất nước Miến Điện. (Sđd. Tr.22).

+ Nêu dẫn sự kiện học đạo và đắc đạo của 2 Hoàng tử Dvattajan và Dvattaràj, con của vua Dvattabaung, là vị vua đầu tiên của vương quốc Thiri Khettara được thành lập vào năm 442 trước TL. Thứ phi Ummàra (Mẹ của hoàng tử Dvattajan) và công chúa Suvanna Mà là cũng được một vị A-la-hán hóa độ. Bản thân vua Dvattabaung cũng là một người mộ đạo, có tinh thần hộ pháp lớn, đã cho xây dựng nhiều tháp đền v.v… Đây được xem là nhà nước đầu tiên của Quốc gia Miến Điện mộ Phật, trị vì kéo dài đến 552 năm. Sau khi triều đại này cáo chung thì dân chúng phân tán. Hai đoàn đã thiên cư tới vùng Thaton và Pagan, tạo sự mở mang cho lãnh thổ Miến Điện (Sđd. Tr.23-25).

+ Tác giả Chánh Trí Mai Thọ Truyền cũng đã dựa theo Niên sử của Phật giáo Miến Điện (Sàsanavamsa) để ghi nhận thêm về một số chi tiết chứng tỏ Phật giáo đã du nhập vào Miến Điện từ rất sớm (Sđd., tr.25-27).
 - Thời Kỳ thứ hai:

Được nêu dẫn với nhiều chi tiết:

 + Công đức hoằng pháp, giáo hóa của 2 Tỳ-kheo Sona và Uttara, từ năm 235 PL trở đi… 

+ Giai đoạn từ năm 800 TL đến 1044 TL: Có nhiều thay đổi trong sự liên lạc giữa các khu độc lập tại Miến. Năm 1018 TL, vua Anurudha đã khéo léo thống nhất các phần đất nơi các bộ lạc Thượng Miến thành một quốc gia rộng lớn, đã hỗ trợ cho sự phát triển của Phật giáo.

 + Phật giáo dưới các triều vua: Vua Anurudha: Từ 1027 TL… Vua Sawlu, từ năm 1079 TL… Năm 1963, Phật giáo được chính phủ Liên Hiệp Miến tôn là Quốc giáo. (Sđd., tr.28-34).
 * Phần Sau cùng: Kết luận. Nêu một vài nhận xét về Phật giáo Miến Điện (Sđd., tr.34-35). 

Phần: Lịch sử Phật giáo Nam Dương (Indonesia)

Gồm các Mục như sau:

* Lời Nói đầu: (Sđd., tr.36-37).

 * Chương I: Phật giáo ở Nam Dương: Từ đầu tới thế kỷ VIII TL. * Chương II: Phật giáo ở Nam Dương: Từ thế kỷ IX tới ngày nay. (Sđd., tr.38-52). * Phần còn lại, từ trang 53 đến trang 68: Tác giả đã nêu tóm tắt về Nghệ thuật và Văn chương của Phật giáo Nam Dương(4).

Phần: Lịch sử Phật giáo Cam Bốt

Gồm các Mục chính: 

* Chương I: Một Ít Tài Liệu Lịch Sử, với các chi tiết: 

+ Thời kỳ tiền lịch sử (Sđd. Tr 69). 

+ Founan quốc: Thời kỳ lịch sử (Sđd., tr.70). + Xa hơn là Ấn Độ và Trung Hoa. 

+ Ảnh hưởng của Ấn Độ. Cuộc Ấn Độ hóa lần thứ 1. Cuộc Ấn Độ hóa lần thứ 2 và thời đại Founan kết thúc (Sđd., tr.71-76.

+ Nước Tchenla (Chân Lạp): Thời kỳ thống nhất. Thời kỳ chia rẽ (Sđd., tr.76-78). 

+ Cam Bốt lập quốc (Sđd., tr.78-83). + Cam Bốt vào cuối thế kỷ thứ XIX (Sđd., tr.84-86).

 * Chương II: Thời kỳ Phật giáo du nhập hay thời kỳ Founan (Sđd. Tr 87-93). 

* Chương III: + Thời kỳ Tchenla (Chân Lạp): Thế kỷ VI-IX (Sđd., tr.94-98). + Thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XX (Sđd. Tr 98-109) với các chi tiết: Sự thờ cúng. Đời sống của Tăng chúng. Nghệ thuật của Phật giáo Khmer. Phật giáo và dân tộc Khmer. Phật giáo và quốc gia. Tình hình Phật giáo hiện nay.

 Phần: Lịch sử Phật giáo Ailao (Lào)

Gồm các Mục:

 * Chương I: Quốc gia và dân tộc Lào (Sđd., tr.110-121) với các chi tiết: + Địa dư. + Nguồn gốc. + Thời kỳ tiền lịch sử. + Thời kỳ lịch sử khởi nguyên (1316-1711). + Pháp quốc can thiệp vào nội tình của Lào (1885).

* Chương II: Phật giáo du nhập (Sđd., tr.122-131) với các chi tiết: + Thời kỳ tiền Phật giáo. + Phật giáo du nhập. + Sự tổ chức Giáo hội. + Sáu bậc Giáo phẩm.

 * Chương III: Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của dân tộc Lào (và hiện tình Phật giáo (Sđd., tr.131-142) gồm các chi tiết: + Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống dân Lào. + Quan niệm của dân chúng đối với Phật giáo và lối tu hành của họ. + Tình hình Phật giáo hiện nay.

 Phần: Lịch sử Phật giáo Thái Lan

Gồm các chương: 

* Chương I: Một ít lịch sử (Sđd. Tr 143-150). 

* Chương II: Phật giáo du nhập và các thời kỳ tiến bộ (Sđd. Tr 151-158) với các chi tiết: + Thời kỳ thứ 1: Tiểu thừa hay Nam tông. + Thời kỳ thứ 2: Đại thừa hay Bắc tông. + Thời kỳ thứ 3: Ảnh hưởng của Phật giáo Miến Điện. + Thời kỳ thứ 4: Ảnh hưởng của Phật giáo Tích Lan.

 * Chương III: Tình hình Phật giáo hiện nay (Sđd. Tr 159-166) với các chi tiết: + Tổng quát. + Quan hệ giữa Phật giáo và nhà nước. + Phật giáo và chính phủ. + Truyền bá và giáo dục. + Tăng đồ giáo dục. + Tổ chức: Giáo hội Tăng-già. Các Hiệp hội Phật tử tại gia. + Giáo sản: Tài sản chung của Giáo hội. Tài sản riêng thuộc mỗi chùa. Viện quản trị tài sản chung. Viện quản trị tài sản chùa.

Phần: Lịch sử Phật giáo Chiêm Thành

Gồm các chương: 

* Chương I: Một ít lịch sử (Sđd. Tr 167-176) với các chi tiết: + Nêu tổng quát về đất nước Chiêm Thành hiện nay. + Nguồn gốc. + Bảng kê khai các triều đại và những biến cố quan trọng: 14 triều đại, từ năm 192 TL đến 1471 TL. 

* Chương II: Văn Hóa và Tôn Giáo (Sđd. Tr 176-185) với các chi tiết: + Nêu: Cuối thế kỷ II sau CN là thời kỳ lịch sử của dân tộc Chàm bắt đầu, vương quốc Chăm đã chịu ảnh hưởng của Văn hóa Ấn Độ… + Phật giáo du nhập vào Chiêm Thành… (Về Lịch sử Phật giáo Chiêm Thành hay nói chung là Lịch sử đất nước Chiêm Thành, xin tham khảo thêm: Dân Tộc Chàm Lược Sử của Dorohiem và Dohamide. Tác giả tự xb. S. 1965). 

Phần: Lịch sử Phật giáo Tích Lan (Srilanka)

Gồm các chương:

* Chương I: Một ít lịch sử (Sđd., tr.186-192) với các chi tiết: + Nêu tóm tắt về danh xưng của Hải đảo Ceylan (Tích Lan) và nguồn gốc của cư dân ở đấy. + Nêu 5 vị vua ở Tích Lan trị vì từ năm 486 đến năm 250 trước CN. + Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã quang lâm đến nước Tích Lan.

 * Chương II: Phật giáo du nhập Tích Lan (Sđd. Tr 193-196) với các chi tiết: + Nêu vắn tắt về tiểu sử và hành trạng của Tỳ-kheo Mahinda con vua A Dục, sang truyền đạo tại Tích Lan. + Vua Devànampiyatissa (Tích Lan) quy y Tam bảo. + Mattabhaya, em ruột của nhà vua đã xuất gia làm Tỳ-kheo. Hoàng hậu và 500 thể nữ cũng xin vua cho xuất gia…

* Chương III: Phật giáo Tích Lan, từ 200-20 trước CN (Sđd., tr.197-207) với các chi tiết: Nêu ra 4 thời kỳ: Thời kỳ 5 vua (200-148 trước CN). Triều đại Elàra (148-104 trước CN). Triều đại Dutthagàmani: 104-80 trước CN). Thời đại Thập vương (80-20 trước CN).

* Chương IV: Phật giáo Tích Lan: Từ đầu TL cho đến hiện nay (Sđd., tr.207-215) với một số chi tiết tiêu biểu: + Nêu vắn tắt về 3 tông phái của Phật giáo Tích Lan vào thế kỷ 3 TL. + Phật giáo Đại thừa đã du nhập và phát triển tại Tích Lan. + Hành trạng của Tôn giả Buddhaghosa (Thế kỷ V TL) từ Trung Ấn sang Tích Lan hoằng đạo (Dùng tiếng Pali chú thích hầu hết các Kinh-Luật-Luận của Phật giáo Nam tông). + Phật giáo Tích Lan từ cuối thế kỷ X đến đầu thế kỷ XI đã bị người Tamil ở Nam Ấn Độ vượt biển sang đánh phá, tiêu diệt Phật giáo…

 + Vua Vijaya-bhàhu (1055-1114) nổi lên đánh đuổi quân thù, khôi phục giang sơn, sai sứ sang Miến Điện thỉnh kinh, tượng Phật về cùng trùng hưng Phật giáo. + Vua Para – khamabhàhu (1153-1186) nhờ sự tiếp sức của Phật giáo Miến Điện đã đưa Phật giáo Tích Lan đến chỗ thống nhất: Lấy Phật giáo Thượng tọa bộ thuộc Đại tự phái của Tôn giả Buddhaghosa (Phật Âm) làm giáo học chính thống. + Đến thế kỷ XIII, Phật giáo Thái Lan có những quan hệ tốt với Phật giáo Tích Lan. + Đất nước Tích Lan bị thực dân Bồ Đào Nha xâm lược, đô hộ, từ 1520-1658. Rồi bị người Hà Lan đô hộ từ 1658 đến 1796. Tiếp sau là thực dân Anh đô hộ từ 1796 đến năm 1948, là năm Tích Lan đã giành được độc lập.

+ Những diễn biến và phát triển của Phật giáo Tích Lan từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX. Và từ đầu thế kỷ XX đến hiện tại (1965) với các chi tiết: + Các tôn giáo: Gia Tô giáo (Catholicisme romain) và Tân giáo du nhập vào Tích Lan. Gia Tô giáo do người Bồ Đào Nha, còn Tân giáo thì do người Hà Lan đưa vào… 

+ Phật giáo bị nhiều tổn thất trong thời gian đất nước Tích Lan bị thực dân phương Tây xâm lược, đô hộ.

 + Phật giáo Thái Lan đã có những hỗ trợ giúp Phật giáo Tích Lan chấn hưng. Những đóng góp lớn cho phong trào chấn hưng Phật giáo Tích Lan từ cuối thế kỷ XIX của danh Tăng M. Gunananda, của Đại tá người Mỹ: H. Seele Olcott (1832-1907), của danh Tăng Hikkaduwe Sri Sumangura và nhất là của Anagarika Dharmapala (1864-1933)…

Nhận xét 

Chúng tôi xin nêu một vài nhận xét tóm tắt xem như là phần kết luận của bài viết này:

* Trước hết, chỉ trong khoảng 200 trang sách khổ 13x17, chữ khá lớn mà tác giả Chánh Trí Mai Thọ Truyền đã viết về lịch sử Phật giáo của 7 nước: Miến Điện, Nam Dương, Cam Bốt, Ai Lao, Thái Lan, Chiêm Thành và Tích Lan, cộng với phần Mở đầu v.v… nên đấy rõ ràng mới chỉ là Những Giới thiệu khái quát, Những Chỉ dẫn tóm lược giúp cho người đọc bước đầu tiếp cận với mảng lịch sử truyền nhập và Phát triển của Phật giáo Nam truyền tại các nước Đông Nam Á, kể cả Tích Lan (Thuộc Nam Á) và Chiêm Thành, là đất nước không còn có tên trên bản đồ thế giới hiện đại. Đây là một lãnh vực rất rộng lớn và phong phú cần được quan tâm khảo sát tìm hiểu, nhưng giới nghiên cứu Phật học ở Việt Nam hiện đại còn đứng cách khá xa(5). Do vậy, điều đáng nhấn mạnh ở đây, nhưng chúng tôi đã có nói qua nơi phần Nhập đề, tức là những cố gắng những nỗ lực rất đáng tán dương của tác giả để tìm hiểu đối tượng. Và chính từ những nỗ lực, những cố gắng ấy mà giá trị của sách đã được xác định. Đó là giá trị Mở đầu - Mở đường, tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu đi sau.

* Thứ hai là về khía cạnh tư liệu tham khảo, tuy người viết cũng đã có nhiều thâu tóm, quán xuyến, nhưng nhìn chung thì vẫn còn thiếu, còn ít, mà sự trích dẫn cũng chưa được rõ, chưa khoa học. Cứ đối chiếu với sách Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2: Phật Giáo Nam Truyền của Pháp sư Tịnh Hải thì sẽ thấy rõ. Chắc chắn là vào thời bấy giờ (khoảng 1965-1966?) tác giả chưa có nhiều điều kiện để tiếp cận với những tài liệu có liên hệ thuộc loại tiêu biểu.

* Ngoài ra, sự kiện tác giả đã viết tóm lược về Lịch Sử Phật Giáo Indonesia (Nam Dương) và Lịch Sử Phật Giáo Chiêm Thành… là những đóng góp rất cần thiết và rất đáng tán dương, vì đã giúp cho người đọc, cụ thể là những người học Phật bình thường có được những hiểu biết tương đối chính xác về quá khứ: Phật giáo đã từng du nhập và phát triển tốt tại những vùng đất khá đặc biệt này. 

Đào Nguyên

_____________________

Bài viết này là tham luận tham dự Hội thảo khoa học: “Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với Hội Phật học Việt Nam”, do Trung tâm Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, tổ chức vào ngày 20-04-2019 (16-3 năm Kỷ Hợi) tại chùa Phật Học Xá Lợi TP.HCM.

(1) Xem: Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2 - Phật Giáo Nam Truyền. Tác giả: Pháp sư Tịnh Hải. Nhiều người dịch. NXB.ĐH và GDCN. 1992. 380 trang.

(2) Về sự kiện Phật giáo từ Ấn Độ (Lan rộng khắp lãnh thổ Ấn Độ) truyền ra nước ngoài có thể tham khảo thêm. Những trang viết của Pháp sư Thánh Nghiêm trong sách Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1. Phần viết về Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ. Chương 4: A Dục Vương và Đại Thiên… Sđd. Tr 76-85.

 (3) Về vùng đất Suvarnabhùmi (Hoặc: Suvannabhùmi) có thể xem thêm: Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới T2 - Phật Giáo Nam Truyền của Pháp sư Tịnh Hải. Phần viết về Lịch Sử Phật Giáo Miến Điện. Nhiều người dịch. NXB.ĐH và GDCN. 1992. tr 141-154.

(4) Đọc qua phần này, người đọc - nhất là lớp trẻ - sẽ hiểu rõ hơn đối với câu viết của Bs Trần Ngọc Ninh trong sách Đức Phật Giữa Chúng Ta (NXB.Lá Bối. S. 1972. Tr.18): “Nhìn qua khía cạnh của dân chúng Á châu nói chung và của người dân Việt Nam nói riêng, đạo Phật không là một đạo yếm thế và xuất thế. Từ những bích họa vĩ đại Ajanta ở Ấn Độ, Tun Chuang ở Trung Hoa, đến những công trình kiến trúc kỳ diệu Mahabodhi ở nơi Đức Phật thành đạo, Borobudur (Sách của Cư sĩ Chánh Trí ghi là: Tháp Bârâbudur) ở Nam Dương, Angkor Vat ở Cao Miên, Đồng Dương ở Champa, Hương Tích Tự ở Việt Nam… đã có cả một sự nảy nở huy hoàng và tràn đầy sinh khí của nghệ thuật Phật giáo, để chứng tỏ sự vui mừng, sự hoan lạc, sự tin tưởng của quần chúng Á châu khi lời của Đức Phật được truyền đến do các Đại sư. Nếu nghệ thuật là phản ánh của tâm hồn thì đây là bằng chứng rằng đạo Phật đã thực đem lại sự an vui”.

(5) Đúng ra thì phải kể đến những đóng góp của GS Trần Quang Thuận cho lĩnh vực này. Đó là các tác phẩm biên soạn về lịch sử Phật giáo nơi từng nước thuộc Đông Nam Á v.v… đã được xb, sau sách Nguyên Nhân Thăng Trầm - Thịnh Suy của Phật Giáo Ấn Độ. Hy vọng là sẽ có dịp chúng tôi sẽ xin giới thiệu các tác phẩm kể trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 1. Phật Giáo Sử Đông Nam Á của Chánh Trí Mai Thọ Truyền. NXB.Tôn Giáo. 2012. 

2. Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 1 của Pháp sư Thánh Nghiêm. Nhiều người dịch. NXB.Hà Nội. 1995.

3. Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới Tập 2. Phật Giáo Nam Truyền của Pháp sư Tịnh Hải. Nhiều người dịch. NXB.ĐH và GDCN. 1992. 

4. Đức Phật Giữa Chúng Ta của BS.Trần Ngọc Ninh. NXB.Lá Bối. 1972. 

5. Dân Tộc Chàm Lược Sử của Dorohiem và Dohamide. Tác giả tự xb. S. 1965. 6. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận 3 của Nguyễn Lang. NXB.Lá Bối. Paris. 1985.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.