Tinh lọc
Nhà sư Ajaan Bate của tu viện trong rừng Khoke Mawn (Khoke Mawn Forest Monastery) đến nói chuyện với Luang Pu về thực hành thiền định, nói rằng: “Con đã thực hành thiền định trong một thời gian dài, đến mức con có thể nhập định (appana samadhi) trong thời gian dài. Khi con xuất định, có những lúc con cảm thấy một cảm giác hỷ lạc thoải mái rất lâu sau đó. Đôi khi có cảm giác về ánh sáng rực rỡ, và tôi hoàn toàn có thể hiểu rõ về thân. Con nên làm gì tiếp theo nữa?”.
Luang Pu trả lời: “Hãy dùng sức định đó để khảo sát tâm. Rồi hãy buông bỏ tất cả các mối trong tâm để không còn gì trong tâm cả”.
Rỗng không
Một thời gian sau, nhà sư Ajaan Bate, cùng với hai vị sư khác và đông đảo cư sĩ đến đảnh lễ Luang Pu. Sau khi Luang Pu khuyên những người mới đến về cách thực hành, sư Ajaan Bate hỏi thêm Luang Pu về lời khuyên mà sư đã nhận được trong chuyến viếng thăm lần trước. “Buông bỏ tất cả các đối tượng là điều con có thể làm chỉ trong giây lát. Nhưng con không thể ở trạng thái đó trong thời gian dài được”.
Luang Pu nói: “Ngay cả khi con có thể buông bỏ tất cả các đối tượng trong một khoảnh khắc, nếu con không thực sự quan sát tâm, hoặc chánh niệm của con không hoàn toàn bao trùm, có thể con chỉ đơn giản là buông bỏ một đối tượng thô thiển để chuyển sang một đối tượng vi tế hơn. Do vậy, con phải ngừng tất cả mọi suy nghĩ tư lường, và hãy để tâm trí an trú trong rỗng không”.
Không tất cả rõ ràng
Có người nói: “Con đã đọc đoạn văn trong tiểu sử của ngài, trong đó nói rằng, trong khi ngài đang lang thang, ngài đã hiểu rõ về vấn đề tâm tạo ra phiền não và phiền não tạo ra tâm. Điều đó có nghĩa là gì?”.
Luang Pu trả lời: “Tâm tạo ra phiền não là nói rằng, tâm dẫn tới ý nghĩ, lời nói và hành động để làm cho cảnh bên ngoài xuất hiện, làm cho chúng thành thiện, làm cho chúng thành bất thiện, dẫn tới kết quả của nghiệp, rồi bám vào những thứ đó, nghĩ rằng, ‘Đó là tôi, đó là tự ngã của tôi, đó là cái của tôi. Kia là cái của họ’.
Phiền não tạo ra tâm là nói về những sự việc bên ngoài ập tới, cưỡng ép tâm đi theo sức mạnh của chúng, khiến nó bám chặt vào ý tưởng cho rằng nó có một tự ngã, giả định những chuyện mà các thứ này cứ kéo lệch ra khỏi sự thật”.
Kiến thức từ học <=> kiến thức từ hành
Có người nói: “Những lời dạy về giới, định, tuệ và giải thoát mà con đã thuộc lòng từ sách vở và từ lời dạy của nhiều vị sư khác nhau: Chúng có phù hợp với sự hiểu biết về bản chất như ngài Luang Pu dạy không?”.
Luang Pu trả lời: “Giới có nghĩa là sự bình thường của một tâm không có lỗi lầm, tâm đã được trang bị vũ khí chống lại bất cứ điều ác nào. Định là kết quả đến từ việc giữ giới đó, tức là một tâm vững chắc, tĩnh lặng như sức mạnh đưa tới bước tiếp theo. Tuệ - ‘cái biết’ - chính là một tâm trống rỗng, nhẹ nhàng và thoải mái, nhìn mọi thứ một cách rõ ràng, thấu suốt, xem chúng như chúng là. Giải thoát là một tâm đi vào tánh Không từ cái rỗng không đó. Nói cách khác, nó buông bỏ sự thoải mái, rời khỏi trạng thái nơi nó không là gì và không có gì, không còn chút suy nghĩ tư lường chút nào cả”.
Chiến lược rời bỏ dính mắc
Có người nói: “Khi con đưa tâm vào trạng thái tĩnh lặng, con cố gắng giữ nó vững chắc trong sự tĩnh lặng đó. Nhưng khi nó gặp một đối tượng hay mối bận tâm nào đó, nó lại có xu hướng mất nền tảng mà con đã cố gắng duy trì”.
Luang Pu trả lời: “Nếu đúng như vậy thì điều đó cho thấy rằng sức định của bạn không đủ kiên cường. Nếu những mối bận tâm này đặc biệt mạnh mẽ - và đặc biệt, nếu chúng liên quan đến những điểm yếu của bạn - thì bạn phải giải quyết chúng bằng cách sử dụng phương pháp quán chiếu. Hãy bắt đầu bằng cách quán hiện tượng tự nhiên thô sơ nhất - tức là, thân - phân tích nó đến từng chi tiết. Khi con đã quán nó đến mức hoàn toàn rõ ràng, hãy chuyển sang quán các hiện tượng trong tâm - bất cứ thứ gì, theo từng cặp, mà con đã từng phân tích, thí dụ như đen và trắng, hay tối và sáng”.
Về ăn
Một nhóm tu sĩ đến đảnh lễ Luang Pu trước mùa an cư và một trong số họ nói: “Con đã thiền định một thời gian dài và đạt được chút bình an, nhưng con gặp vấn đề về việc ăn thịt. Ngay cả chỉ nhìn vào thịt, con thấy thương cho con vật đã phải hy sinh mạng sống chỉ để con ăn thịt nó. Dường như là con thực sự thiếu lòng từ bi. Khi con bắt đầu lo ngại về điều này, con thấy tâm khó được bình an”.
Luang Pu nói: “Khi một tu sĩ thọ dụng bốn món vật dụng cần thiết, vị ấy nên quán chiếu chúng trước tiên. Nếu khi quán xét, vị ấy thấy rằng ăn thịt là một hình thức áp bức và thể hiện sự thiếu từ bi đối với loài thú, vị ấy nên kiêng thịt, và thay vào đó hãy ăn đồ chay”.
Nói thêm về ăn
Khoảng ba hoặc bốn tháng sau, cũng nhóm tu sĩ đó đã đến đảnh lễ Luang Pu sau mùa an cư và nói với ngài rằng: “Chúng con ăn chay suốt mùa mưa, nhưng rất khó khăn. Những cư sĩ nơi chúng con đang ở trong làng Khoke Klaang, quận Praasaat, không biết gì về thức ăn chay. Chúng con khó tìm được thức ăn nào, và điều đó gây rắc rối cho những cư sĩ hỗ trợ. Một vài nhà sư thấy sức khỏe suy kém, và một vài người trong chúng con không thể trải qua cho hết mùa an cư. Chúng con đã không thể nỗ lực nhiều trong việc thiền định như lẽ ra phải có”.
Luang Pu nói: “Khi một nhà sư thọ dụng bốn vật dụng cần thiết, vị ấy nên quán chúng trước. Nếu khi quán, vị ấy thấy rằng thức ăn trước mặt vị ấy - dù là rau, thịt, cá hay cơm - đều thanh tịnh trong ba cách mà vị này không nhìn thấy, nghe thấy hoặc nghi ngờ rằng một con vật bị giết để cung cấp thức ăn cụ thể cho vị này, và vị này cũng có được thức ăn này một cách có đạo đức, rằng người tại gia cúng dường vì đức tin, thì vị đó nên ăn thức ăn đó. Đó cũng là cách mà các vị thầy của chúng ta đã thực hành”.
Vẫn nói thêm về ăn
Vào ngày thứ hai của tuần trăng khuyết trong tháng thứ ba của năm 1979, Luang Pu đang ở tại tu viện trong rừng Prakhonchai (Prakhonchai Forest Monastery). Sau 8 giờ tối, một nhóm tu sĩ thích đi lang thang, dựng lều gần khu dân cư, cũng đến tu viện nghỉ đêm ở đó. Sau khi đảnh lễ Luang Pu, họ nói về điều mà họ cảm thấy là đặc điểm nổi bật trong việc thực hành của họ: “Những người ăn thịt đang ủng hộ việc giết hại thú vật. Những người chỉ ăn rau cho thấy mức độ từ bi cao độ. Bằng chứng là khi chuyển sang chỉ ăn rau, tâm sẽ trở nên an bình và mát mẻ hơn”.
Luang Pu trả lời: “Điều đó rất tốt. Việc quý vị có thể ăn chay là rất tốt, và tôi muốn bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình. Đối với những người vẫn ăn thịt, nếu thịt đó thanh tịnh theo ba cách - trong đó họ chưa từng thấy, nghe hoặc nghi ngờ rằng con vật đó bị giết để cung cấp thức ăn cụ thể cho họ - và họ có được nó một cách thanh tịnh, thì việc ăn thịt đó không hề trái với Chánh pháp và giới luật. Nhưng khi quý vị nói rằng tâm trở nên an bình và mát mẻ, thì đó là kết quả của sức mạnh đến từ ý định về thực hành đúng theo Chánh pháp và giới luật. Nó không dính gì đến thức ăn mới hay cũ trong bụng quý vị cả”.
Kinh doanh và thực hành pháp
Một nhóm thương gia nói: “Chúng con có nhiệm vụ của mình là thương gia, nghĩa là đôi khi chúng con phải phóng đại sự việc hoặc thu lợi nhuận quá mức, nhưng chúng con cực kỳ quan tâm đến thiền định và đã bắt đầu thực hành. Tuy nhiên, một số người đã nói với chúng con rằng, rằng với sinh kế của mình, chúng con không thể hành thiền. Ngài nói gì về điều này, thưa Luang Pu? Vì họ nói rằng bán để kiếm lời là một tội lỗi”.
Luang Pu nói: “Để sống còn, mỗi người cần có một nghề, và mỗi nghề đều có những tiêu chuẩn riêng về điều nào là đúng và phù hợp. Khi quý vị tuân theo những tiêu chuẩn đó một cách đúng đắn, điều đó được coi là trung tính - không có công đức, cũng không có tội. Về việc thực hành Pháp, đó là điều quý vị nên làm, vì chỉ những người thực hành Pháp mới phù hợp để làm việc trong mọi hoàn cảnh”.
Kỷ niệm chôn vùi
Một lần nọ, khi Luang Pu đang lưu trú tại tu viện trong rừng Yothaaprasit (Yothaaprasit Forest Monastery), nhiều vị sư và Sa-di đã đến để tỏ lòng kính trọng. Sau khi họ lắng nghe những lời dạy của ngài, Luang Taa Ploi - người đã xuất gia khi cao niên nhưng rất tự chế trong việc thực hành - nói với Luang Pu: “Con đã xuất gia khá lâu rồi, nhưng con chưa thể cắt đứt sự dính mắc vào quá khứ. Dù con có giữ tâm vững chắc vào hiện tại đến đâu, con vẫn thấy chánh niệm sơ thất và con cứ trượt lùi. Ngài có thể chỉ cho con một phương pháp khác để ngưng tình hình này không?”.
Luang Pu đáp: “Đừng để tâm chạy theo những mối bận tâm bên ngoài. Nếu chánh niệm của con rơi mất, thì ngay khi con nhận biết được nó, hãy lập tức kéo nó lại. Đừng để nó đi tìm những mối bận tâm dù là tốt hay xấu, dù là vui sướng hay đau đớn. Đừng rơi theo chúng, nhưng cũng đừng dùng cường lực để cắt đứt chúng”.
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4-10-1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi, ngài xuất gia ở tỉnh lỵ. Sáu năm sau, thất vọng với nếp sống của một Tăng sĩ thất học, ngài rời đi để học ở Ubon Ratchathani, nơi ngài kết bạn với Ajaan Singh Khantiyagamo và tái xuất gia vào tông phái Dharmayut. Không lâu sau đó, ngài và Ajaan Singh gặp Ajaan Mun, người vừa trở về vùng Đông Bắc Thái Lan sau nhiều năm lang thang. Ấn tượng với những lời dạy và pháp thực hành của Ajaan Mun, cả hai tu sĩ đều từ bỏ việc học và bắt đầu cuộc sống thiền định lang thang dưới sự hướng dẫn của ngài Ajaan Mun. Vì vậy họ là hai đệ tử đầu tiên của Ajaan Mun. Sau khi lang thang 19 năm qua rừng núi Thái Lan và Campuchia, ngài đảm nhận chức vụ trụ trì của Wat Burapha, ở giữa thị trấn từ năm 1934. Ngài ở đó cho đến khi qua đời vào năm 1983. Và sau đây là những lời dạy của ngài, với cách xưng hô tôn kính là Luang Pu.
___________
Phra Bodhinandamuni ghi lại; Thanissaro Bhikkhu dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh