Mẹ sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo khó nên phải nghỉ học từ rất sớm. Từ nhỏ mẹ đã phải bươn chải với cuộc sống mưu sinh và để phụ giúp gia đình. Khi lớn lên mẹ về làm dâu cũng trong một gia đình thuần nông dân không biết đến Tam bảo nên mẹ cũng không có sự tiếp xúc với đạo Phật. Cuộc sống bộn bề sáng tối vừa làm dâu, làm vợ đến làm mẹ và rồi những công việc đồng áng làm mẹ tôi tất bật. Sự quan tâm của mẹ chỉ quanh quẩn bên gia đình và đồng ruộng. Nhưng những câu chuyện về sự vi diệu của Phật pháp mà mẹ nghe bà con hàng xóm kể lại rồi tự dưng trong lòng bỗng dâng lên niềm tin yêu Phật pháp đến lạ kỳ. Niềm tin của mẹ thật chân thành, tuyệt đối trong khi bản thân không biết gì nhiều đạo Phật.
Khi chúng tôi, những đứa con của mẹ bắt đầu lớn, mẹ tôi cũng có thời gian rảnh hơn. Mẹ dành thời gian đi chùa, bắt đầu hiểu về đạo Phật, rồi mẹ dẫn các con cùng đi. Cái nghịch duyên lớn của mẹ là cha tôi chẳng những không biết đạo, không chịu tìm hiểu mà còn có những lúc tỏ ra không vui khi mẹ đi chùa. Nhưng mẹ vẫn đi sau khi cố gắng tất bật làm xong công việc. Ban đầu, mẹ cũng không phân biệt tượng nào là Phật A Di Đà, là Phật Thích Ca, là Bồ-tát Quan Thế Âm… đi vào chùa gặp tượng nào mẹ cũng quỳ xuống thành tâm niệm: “Nam-mô A Di Đà Phật”. Sau dần dần thì mẹ cũng phân biệt được, và trong đầu mẹ chỉ có biết sự tin tưởng Phật pháp.
Đặt chiếc chiếu manh trước bàn Thiên, mẹ quỳ xuống mà lạy, vừa lạy vừa niệm: “Nam-mô A Di Đà Phật”, cho đến khi mệt mới chịu vô nhà.
Mẹ thường dặn các con đi trên đường phải niệm Phật, gặp khó khăn sợ hãi đều phải niệm Phật, rảnh lúc nào niệm Phật lúc đó, khi ngủ càng phải niệm Phật, niệm đến khi chìm sâu vào giấc ngủ. Trong nhà tôi có nhiều bàn thờ: bàn thờ ông bà tổ tiên, bàn thờ Thần Tài, Ông Táo, Quan Công, Thổ Địa,… nhưng không có bàn thờ Phật. Mẹ tôi bàn với cha về việc lập một bàn thờ Phật trong nhà nhưng cha tôi không chịu. Cha cho rằng những bàn thờ kia đã được đặt ở vị trí đó đã từ rất lâu, và cha cũng không tin lắm nên không chấp nhận việc này. Không thuyết phục được, không có bàn thờ Phật, cũng không có hình tượng Phật, thế nhưng mẹ tôi cũng không bỏ cuộc. Một buổi tối nọ, mẹ ra sân trải một chiếc chiếu manh nhỏ, mặc cho dưới chiếc chiếu kia là đá xanh đã được rải lên để tránh bị nước mưa hay nước ngập làm trôi đất. Đặt chiếc chiếu manh trước bàn Thiên, mẹ quỳ xuống mà lạy, vừa lạy vừa niệm: “Nam-mô A Di Đà Phật”, cho đến khi mệt mới chịu vô nhà. Ngày qua ngày, tối đến khi công việc đồng áng và việc nhà đã xong, trong lúc mọi người ở trong nhà: cha tôi nằm xem tivi, chị em chúng tôi học bài, là lúc mẹ tôi ra sân tiếp tục lạy và niệm Phật.
Mẹ không được học căn bản về đạo Phật, cũng không được tiếp cận sách báo Phật giáo để hiểu nhiều, nhưng mẹ cứ nhìn lên trời theo 4 hướng: đông, tây, nam, bắc mà lạy. Tuy lạy Phật mà không có hình tượng Phật trước mặt, không có bàn thờ trang nghiêm như người ta nhưng mẹ tin Đức Phật sẽ cảm nhận và nhìn thấy được sự thành tâm và tôn kính của mẹ đối với Ngài. Sự thành tâm của mẹ cuối cùng cũng lay động được cha tôi. Một thời gian sau khi mẹ tôi lạy Phật như thế, cha đã bắt đầu đi chùa, lạy Phật, và tiến thêm một bước nữa là cha phát tâm quy y Tam bảo, lập bàn thờ Phật. Trong nhà chỉ thờ Phật và bàn thờ ông bà tổ tiên, và cả nhà cùng tụng kinh, lạy Phật. Mẹ tôi đi từ niềm vui này đến niềm vui khác, mẹ thường hay nói: “Phật pháp thật nhiệm mầu”.
Giờ đây, niềm tin của mẹ đã được bổ sung bằng sự hiểu biết về những lời Phật dạy, và niềm tin của mẹ ngày càng mãnh liệt hơn. Các con của mẹ nay được học hành, có nhiều điều kiện tiếp xúc với Phật pháp, gần gũi được nhiều thiện tri thức, đã dần dần giúp mẹ hiểu hơn về đạo Phật. Từ những ngày được tiếp xúc tìm hiểu Phật pháp, mẹ tôi càng tin tưởng hơn, lý giải được nhiều vấn đề, gắn kết được nhiều vấn đề giữa đạo và đời, mẹ còn khuyên nhủ những người khác giúp họ mau tìm đến ánh sáng diệu kỳ của Phật pháp. Mỗi khi chúng tôi về nhà, mẹ còn kể chuyện và lý giải những lời dạy của Đức Phật cho chúng tôi nghe. Lắng nghe mà trong lòng vui sướng, tôi thường nói thầm: “Mẹ ơi! Con đã từng nghe thấy, cũng đã hiểu và đã bắt gặp những thiện tri thức dạy cho con những điều đó, nhưng con thật vui sướng khi mẹ lại dạy cho chúng con một lần nữa”.
Thật hạnh phúc biết bao, niềm tin đơn thuần tuyệt đối của mẹ đã cảm hóa biết bao nhiêu người trong gia đình, cảm hóa cha, cảm hóa được các con, giúp chúng con có một định hướng vững chắc để không rơi vào những sự cám dỗ của cuộc đời.