Những nét đẹp của Phật giáo Lý - Trần

Những nét đẹp của Phật giáo Lý - Trần
Từ trước đến nay, người ta nhìn về Phật giáo Lý - Trần thường căn cứ trên những tác  phẩm thơ văn nổi tiếng của thời Lý - Trần còn lưu lại trong sử sách, đặc biệt là tác phẩm Thiền uyển tập anh nổi tiếng. Ngoài các áng văn thơ tiêu biểu đóng góp rất nhiều cho nền văn học nước ta, thời Lý - Trần còn có các ông vua rất sùng đạo Phật, có vua được coi là thiền sư như vua Lý Thái Tổ, hay vua Lý Thánh Tông, hoặc vua Trần Thái Tông..., thậm chí đức vua Trần Nhân Tông được tôn danh là Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ngài đã rũ bỏ quyền lực, lợi danh để xuất gia vào cái tuổi tràn đầy sức sống và nhất là ngài đang ở đỉnh cao của vinh hoa phú quý.

Qua những trang sử còn lưu đậm dấu ấn son sắc về trí tuệ ngời sáng và những thành quả lớn lao mà Phật giáo Lý - Trần đã đóng góp rất đáng kể cho đất nước trên nhiều lĩnh vực, Phật giáo Lý - Trần đã được đánh giá là thời kỳ vàng son của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, ít có người để tâm tìm về nguyên nhân sâu xa để thấy được cái gì ẩn chứa bên trong đã tạo nên sự thành công mỹ mãn của vua quan và thiền sư thời Lý - Trần. Nhận chân được hạt nhân tiềm ẩn quý báu của Phật giáo Lý - Trần mới giúp chúng ta rút ra bài học cho việc xiển dương Phật giáo Việt Nam ở thời hiện đại.

Riêng tôi, nhờ có cơ hội đi hoằng pháp ở phía Bắc nước ta, tôi cố tìm lại những di tích lịch sử của Phật giáo chúng ta và tôi cũng dành nhiều thì giờ trầm mặc để tìm về đời sống tâm linh của các vị thiền sư thời vàng son ấy. Thật vậy, lặn sâu vào mạch sống nội tâm, tôi cố lắng nghe những gì các ngài thực sự muốn truyền trao, từ đó, tôi cảm nhận được những gì khác hơn là dấu tích đóng khuôn của ngữ ngôn, văn tự trong sách vở, mà Phật giáo thường diễn tả bằng bốn chữ “bất khả tư nghì”. Chính điều này đã phần nào giúp tôi trên bước đường hoằng pháp, chia sẻ với các bạn đồng hành trên lộ trình tìm chân lý và thể nghiệm chân lý trong cuộc sống.

Có thể khẳng định rằng trong Phật giáo, Thiền được coi là cốt lõi. Chính đời sống của Đức Phật đã toát lên một cách kỳ vĩ cái nét trầm mặc từ khi ngài còn là Sa môn dấn thân tìm đạo, và cũng nhờ sự nhập định dưới cội bồ đề mà Ngài thành tựu quả vị Vô thượng Đẳng giác. Từ đó, trong suốt 49 năm thuyết giáo độ sinh, Đức Phật cũng luôn an trú trong đời sống trầm mặc, mà chúng ta gọi là Thiền. Nói cách khác, đó là đời sống nội tâm, tỉnh thức, theo đó Ngài thấy biết chính xác mối quan hệ vô hình giữa mình và mọi người từ quá khứ cho đến hiện tại và dẫn đến cả vị lai.

Với cái nhìn tỉnh giác phát xuất từ nếp sống trầm mặc, hàng ngày trên bước đường giáo hóa, Đức Phật tìm đến cứu độ những người có duyên với Ngài từ quá khứ, dù là thuận hay nghịch duyên. Người có sẵn thiện duyên với Phật, Ngài đến để nuôi lớn căn lành của họ. Đối với người ác duyên, Phật biết rõ duyên quá khứ, nên đến để phá vỡ duyên ác đó và chuyển đổi, xây dựng duyên lành với họ trong hiện tại. Vì vậy, Đức Phật thành công hoàn toàn trong việc cảm hóa mọi người, kể cả người ác.

Sau khi Phật nhập Niết bàn, bên cạnh những người kế thừa sự nghiệp của Ngài về giáo lý, còn có những người kế thừa quan trọng hơn; đó là sự kế thừa về đời sống tâm linh, trầm mặc, tỉnh giác.

Các thiền sư Việt Nam thời Lý - Trần đã thể hiện sâu sắc tinh thần kế thừa tâm linh từ Phật cho đến các vị Tổ sư. Thật vậy, các ngài đã thắp sáng đời sống trầm mặc giống như Phật qua sự thấy biết chính xác mọi việc xảy ra và tùy theo đó giải quyết tốt đẹp nhất. Điển hình như Thiền sư Đỗ Thuận pháp, sư đóng vai người chèo đò đưa khách sang sông. Chỉ với công việc đơn giản vẻ bề ngoài bình thường như thế, nhưng ngài đã đối đáp tinh thông, khiến sứ giả của nước Trung Hoa phải nể phục, dẫn đến giải quyết được việc đại sự cho quốc gia một cách nhẹ nhàng.

Hoặc hình ảnh sáng suốt tuyệt vời của Vạn Hạnh Thiền sư, ngài bảo vua Lê Đại Hành chỉ việc án binh bất động trong 21 ngày là giặc phải lui, hoặc ngài khuyên dời đô về Thăng Long để địa thế được vững bền. Thực tế đã xảy ra hoàn toàn đúng với sự chỉ dạy của ngài.

Hoặc vua Lý Thánh Tông rất sáng suốt khi chỉ đạo rằng chăm lo cho đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc chính là bảo vệ sự độc lập của nước nhà.

Hoặc vua tôi nhà Trần thể hiện tích cực tinh thần bình đẳng, cảm thông, khoan dung một cách đáng khâm phục. Nổi tiếng là vua Trần Nhân Tông qua sự kiện trong buổi tiệc mừng chiến thắng cho một thượng tướng, nhân lúc gió thổi tắt đèn, ông này đã có cử chỉ sàm sỡ với bà phi của vua và bị giật đứt một quai nón. Vua biết vậy, chẳng những không kết tội, còn bảo rằng nếu các quan thực sự vui với trẫm thì quai nón phải đứt. Mọi người nghe vậy liền giật đứt quai nón, nên chẳng còn biết ông quan nào là người đã làm bậy.

Hoặc đánh thắng giặc Nguyên xong, tịch thu được tráp có sớ đầu hàng của các quan, vua Trần Nhân Tông không cho truy cứu, mà bảo đem đốt. Nói theo ngày nay là khép lại quá khứ, hướng đến tương lai.

Qua cách giải quyết một vài công việc đại sự của vua Trần Nhân Tông cho thấy nhà vua thể hiện tinh thần bình tĩnh vô cùng và giải quyết việc hoàn toàn sáng suốt, lại thêm có đức tính nhân hậu, từ ái, khoan dung là điểm đặc sắc của đệ tử Phật.

Bình tĩnh, sáng suốt, vị tha chính là tinh ba của Thiền theo Phật giáo, mà Đức Phật, chư vị Tổ sư và các bậc cha anh của chúng ta đã tỏa sáng trong mọi việc làm trên bước đường cứu độ chúng sinh, xiển dương Phật pháp. Ngày nay, nếu chúng ta tiếp thu được những nét đẹp tuyệt vời của Thiền theo Phật và cha ông chúng ta, chắc chắn Phật giáo sẽ là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại thoát khỏi những xung đột, hận thù, chiến tranh, khổ đau và xây dựng được ngôi nhà chung an vui, hòa hợp, hòa bình trên trái đất này.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.