Thỉnh thoảng, có vài vị nhân sĩ đạo Gia-tô níu kéo tôi vào đạo, nhưng vì những lý luận trong cuốn Cựu ước cũng như Tân ước không thể nào làm cho tôi tin và tiếp nhận được, cho nên tôi không theo.
Nơi tôi sống lại không có chùa chiền, không gần gũi được với những bậc thiện tri thức, vì vậy đối với Phật giáo, tôi cũng chẳng biết tí gì. Vậy mà cách đây hai năm, vô tình tôi đọc được một cuốn sách do Lương Nhậm Công viết có tựa đề Cương yếu giáo lý Phật-đà thời nguyên thủy và hiện đại, khiến cho tôi có hứng thú nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Từ đó, tôi phát sinh chánh tín, quy y Tam bảo và trở thành một Phật tử tại gia.
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả, tôi hết ngày đến đêm lần mò, khám phá, tìm kiếm. Trong quá trình nghiên cứu, tôi cảm thấy Phật pháp thật cao thâm, viên dung, tinh tế. Phật pháp đã phá trừ những mê muội của tôi và cho tôi trí tuệ. Từ đó, tôi càng tinh tấn hơn, không dám lười biếng. Tôi đã bỏ đi lòng tự kỷ, và đem những chỗ hay trong Phật pháp mà tôi biết được giới thiệu cho bạn bè, người thân, hy vọng rằng họ cũng có thể phát khởi được chánh tín, quy y cửa Phật.
Có một điều, bản thân tôi luôn cảm thấy mình là người từ mê vào ngộ, được đi trên con đường chân chính. Nhưng trong mắt bạn bè, tôi là người từ ngộ vào mê, tức tin theo Phật là sai lầm, là đi vào con đường tiêu cực, bi quan yếm thế. Về điểm này, tôi không muốn biện bạch. Tôi thấy mình tin Phật là đúng, mà người khác chê cười tôi tin Phật cũng là đúng. Đã vậy, có thể nói là người mê tự mê, kẻ ngộ tự ngộ, hà tất biện bạch làm gì.
Ở một phương diện khác, khi tôi chưa quy y Tam bảo, tôi không có tín ngưỡng bất kỳ tôn giáo nào, cũng không quan tâm đến tín ngưỡng tôn giáo của người khác, đồng thời cũng rất ít khi thảo luận về vấn đề này. Sau khi quy y Tam bảo, nhân vì thấy sự lợi ích của Phật pháp, tôi mới đem giới thiệu cho người khác. Tôi thường cùng với các bạn đồng tu tham gia hoằng dương Phật pháp, đem Phật pháp đến với mọi người, hy vọng có thể làm cho mọi người phát khởi niềm tin.
Nhờ cơ duyên này tôi mới phát hiện ra rằng, trong xã hội hiện nay, còn rất nhiều người kỳ thị Phật giáo, rất nhiều người hiểu sai về Phật giáo, rất nhiều người còn xa lạ với Phật giáo, và ngay cả những người mệnh danh là Phật tử cũng không hiểu gì về Phật giáo bao nhiêu. Cho nên, phần nhiều giới nhân sĩ trí thức mới dùng những từ như lạc hậu, mê tín, tiêu cực, yếm thế… chụp lên đầu Phật giáo. Trong khi đó, Phật giáo là một tôn giáo lấy từ bi làm gốc, lấy nhẫn nhục làm hạnh, cho nên, dù người ta nói gì thì nói, người Phật tử không hề biện bác, cũng không giải thích. Đó cũng là một nguyên nhân khiến cho xã hội ngày càng nhận thức sai lầm về Phật giáo.
Tôi nhận thấy, mọi tầng lớp trong xã hội, hoặc vô tình, hoặc cố ý, nhận thức sai lầm về Phật giáo, có mấy loại sau đây:
1- Những người kỳ thị Phật giáo: Nhóm người này, có hai. Một là kỳ thị một cách có ý thức. Hai là a dua theo một cách mù quáng. Loại thứ nhất là trong não bộ đã có sẵn thành kiến, cố ý nói xấu. Loại thứ hai là nghe người ta nói sao mình nói lại vậy, kiểu a dua, phụ họa. Nhóm người thứ nhất phần lớn là những người truyền giáo ngoại đạo, vì lợi ích tôn giáo mình, bất chấp thủ đoạn đổi trắng thay đen, luôn cho Phật giáo là lạc hậu, mê tín, tiêu cực, yếm thế… tôn vinh tôn giáo mình là tiến bộ, khoa học.
Nhóm người thứ hai là tín đồ của nhóm thứ nhất, luôn cảm thấy rằng “trăng ở xứ người sáng và tròn hơn trăng ở xứ mình”. Cho nên, hễ ông thầy xứ nọ đã nói Phật giáo là lạc hậu, mê tín thì liền hùa theo đồng tình cho rằng Phật giáo lạc hậu, mê tín. Nhưng nếu bạn hỏi họ vì sao nói Phật giáo lạc hậu? Thế nào là mê tín? Thì họ không biết trả lời thế nào, dù chỉ một câu. Bởi vì họ vốn không biết một chút gì về Phật giáo hết.
Có một vị bác sĩ danh tiếng hỏi tôi: “Tại sao anh lại tin Phật giáo, và còn đốt hương, tụng kinh nữa?”. Tôi trả lời: “Tin Phật có gì không tốt?”. Ông ta nói: “Do xu thế tiến hoá của nhân loại, tôn giáo phải từ đa thần trở về nhất thần”. Tôi giải thích: “Thần là thần, Phật là Phật, căn bản là không giống nhau. Dù từ đa thần trở về nhất thần đi nữa, thì chung quy đó cũng chỉ là những tôn giáo có tín ngưỡng nhờ tha lực. Trong khi đó, Phật giáo dạy con người phải nương vào tự lực, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, người nào cũng có thể tu tập thành Phật”. Dù nói lý lẽ phải trái, ông bác sĩ cũng không thể nào tiếp thu được. Tôi nghĩ, hoằng pháp phải khế cơ, nếu không, nói cũng vô dụng, không được gì.
2- Những người hiểu sai Phật giáo: Những người này không phản đối, bôi nhọ Phật giáo, nhưng bởi vì không nhận thức đúng đắn về bản chất của Phật giáo, cho nên cho rằng Phật giáo cũng như những đạo thờ thần, cúng tế, lễ bái… từ đó vướng mắc rất nhiều sai lầm. Nhóm người này chiếm tỷ lệ rất nhiều. Có người đã lợi dụng thần linh để kiếm tiền, thậm chí lấy những chuyện kiểu như hiển linh này nọ… rồi gán ghép cho Phật giáo. Sự hiểu lầm lệch lạc này không hề được giải thích rõ ràng.
Cách đây một năm, có một tờ báo đăng bài có tiêu đề: “Lợn béo ngàn cân, Bồ-tát có phước”. Nội dung bài báo tường thuật chuyện ở một làng nọ nhân kỳ lễ vía thần Đại đế, đã giết rất nhiều lợn để tế lễ. Vị ký giả thấy sự cúng tế hậu hĩ như vậy nên mới đặt tiêu đề “Bồ-tát có phước”. Tôi nghĩ, vị ký giả đó đã phạm hai sai lầm lớn. Một là, ông ta đã ngộ nhận Đại đế của đạo thờ Thần thành Bồ-tát của Phật giáo. Hai là, ông ta không hiểu rằng tinh thần cơ bản nhất của Phật giáo không được sát hại chúng sanh. Vì vậy, sai một ly đi một dặm. Kiểu nhận thức về Phật giáo như bài báo nọ đã đăng càng làm cho giới trí thức trong xã hội đánh đồng Phật giáo với đạo thờ Thần làm một.
3- Những người chưa biết về Phật giáo: Nhóm người này, Phật giáo đối với họ rất xa lạ và chiếm tỷ lệ rất nhiều trong xã hội. Có người vì cơm ăn áo mặc, có người vì sự nghiệp công danh, suốt ngày họ đắm chìm trong năm món dục tài, sắc, danh, thực, thùy, cho nên không còn thời gian biết đến những chuyện khác. Trong đầu óc của những người này, căn bản là không có ấn tượng tôn giáo.
Tôi đã từng có dịp nói chuyện với một người bạn là thương nhân về vấn đề tôn giáo và khuyên anh ấy phát khởi niềm tin ở Phật giáo - anh ta là một người rất bận rộn, vì phải xử lý mọi việc lớn nhỏ trong công ty, khó khăn lắm anh ta mới có được một chút thời gian chuyện trò với tôi. Tôi chưa nói hết nửa câu, thì anh ta thể hiện ngay rằng, đối với Phật giáo anh không xa lạ gì, anh nói với vẻ tự đắc: “Có phải trong Phật giáo có ông Phật tổ Như Lai to thiệt to ở Tây thiên không?”. May mà ông ta đã xem qua bộ phim Tây du ký, bằng không, sợ rằng mấy chữ Như Lai Phật tổ anh ta cũng không biết.
Trong kinh Phật nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó được nghe, tín tâm khó phát”. Thật đúng như vậy! Phật giáo lưu truyền ở đất nước ta (Trung Quốc) trên hai ngàn năm, nền Phật học từ thời Nam Bắc triều, đến đời Tùy, đời Đường trở đi, đã ảnh hưởng rất sâu rộng trong văn hóa, tư tưởng của dân tộc. Vậy mà cho đến hôm nay, trong xã hội, phần lớn là những người không hề biết gì về Phật giáo. Thực trạng như vậy, không biết là nên buồn cho Phật pháp, hay buồn cho văn hóa nước nhà!
4- Những người mượn danh Phật tử: Những người này chỉ mặc bên ngoài một chiếc áo Phật giáo, rồi tự xưng là đệ tử của Phật. Họ cũng đốt hương, niệm Phật, tụng kinh, bái sám. Nhưng mục đích chính là lợi dụng lòng mê tín và thiếu hiểu biết của những người nông dân quê mùa chất phác để kiếm tiền.
Trong chùa miếu của họ thì thờ đủ loại, Chân nhân, Tiên cô, và cả Bồ-tát nữa; phương pháp tu trì của họ là vận khí, niệm chú. Loại này như nhà võ, xem bốn biển một nhà. Nếu như họ không đề hai chữ Phật giáo thì thôi, khổ nỗi họ đã dùng chiêu bài tín đồ Phật giáo khiến cho những người Phật tử chân chính nhầm lẫn? Ngoài ra, còn có một số người khởi xướng cái phong trào“tam giáo quy nhất”, đánh đồng Phật, Nho, Lão với nhau, khiến cho giới tín đồ Phật tử chánh tín dở khóc dở cười!
5- Những người muốn tìm hiểu Phật giáo mà không có cơ duyên: Nhóm người này cũng tương đối đông, phần nhiều là giới trí thức, họ biết được rằng giáo lý của nhà Phật rất sâu sắc, có ảnh hưởng và quan hệ mật thiết với văn hóa Trung Quốc. Vì vậy, họ rất muốn tìm hiểu một chút về đại ý Phật học, nhưng khổ nỗi là không có cơ duyên. Thứ nhất là, rất khó gặp thiện tri thức để học hỏi; thứ hai là, không tìm được sách để đọc. Họ muốn tìm hiểu Phật giáo, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Cho nên, họ không có cơ hội hiểu được Phật giáo, và vì vậy không thể nào phát khởi được niềm tin.
Một người bạn của tôi làm công tác giáo dục, nói chuyện về vấn đề Phật giáo, ông ta phân trần: “Trước đây tôi rất muốn biết tình hình tổ chức và nội dung kinh điển của Phật giáo, cho nên tôi đã từng thỉnh giáo một vị trưởng bối, vị này ăn chay và niệm Phật. Nhưng vị ấy không biết gì nhiều, bèn đưa cho tôi một cuốn Thiền môn nhật tụng và vài cuốn kinh gì đó. Tôi xem qua một lần, rồi xem lại nhiều lần, nhưng càng xem càng mờ mịt, và cuối cùng là cái ý niệm tìm hiểu Phật giáo ban đầu của tôi biến tiêu mất”.
Những trường hợp tương tự như trên còn nhiều không kể hết. Điều đó khiến cho tôi nghĩ đến hiện nay trong xã hội vẫn còn có quá nhiều người nhận thức sai lầm hoặc còn quá xa lạ đối với Phật giáo. Làm thế nào để những người này có một nhận thức chính xác và cơ bản về Phật giáo? Đó là vấn đề mà tất cả chúng ta phải suy nghĩ.
Phật pháp rất cao thâm, viên dung và tinh tế, giới học giả có duyên nghiên cứu Phật giáo đã công nhận như vậy. Ngay cả giới trí thức không theo Phật giáo cũng thừa nhận rằng lý luận của Phật giáo rất chính xác và vĩ đại. Nhưng, cũng chính vì Phật pháp vi diệu như vậy cho nên khó lãnh hội; vì cao thâm cho nên khó hiểu. Tam tạng thánh điển gồm mười hai bộ kinh mênh mông như biển cả. Danh và tướng đã nhiều, mà từ và ý thì càng sâu sắc. Cho nên, đem Phật pháp mà nói cho những người chưa từng tiếp xúc với Phật giáo thì thật khó vô cùng. Cũng giống như đem viên ngọc báu ma-ni để trước mắt người mù, thì dù viên ngọc sáng đến bao nhiêu, người ấy cũng không cảm nhận được.
Xã hội đang đứng trước nhiều tệ nạn, Phật pháp thì suy vi. Khắp nơi nổi lên nhiều tà thuyết, dị đoan. Cho nên, việc hoằng dương Chánh pháp, cứu vãn tình thế xã hội, là trách nhiệm của mỗi người Phật tử, mà đặc biệt là những người xuất gia. Mong rằng chư tôn đức Tăng Ni đẩy mạnh công cuộc hoằng dương Phật pháp hơn nữa để những trường hợp nhận thức sai lầm và lệch lạc về Phật giáo như trên không còn nữa.
Vu Lăng Ba
(Thích Nguyên Hùng lược dịch)