Đào Cam Mộc quê ở huyện Yên Định, Thanh Hóa. Quê cha ở làng Tràng Lang, Định Tiến, quê mẹ làng Nam Trịnh, Yên Trung. Hai làng quê đã sinh ra một người con ưu tú làm rạng danh cho quê hương, xứ sở là Đào Cam Mộc, chính vì vậy từ bao đời nay dân hai làng càng tự hào bao nhiêu lại càng đoàn kết, gắn bó bấy nhiêu, như nhân dân trong vùng xưa nay nói:
Tràng Lang – Nam Trịnh
Nghĩa đá vàng từ thuở tiền Lê
Về sự ra đời của Đào Cam Mộc, người trong vùng vẫn thường hay kể: Một buổi sáng bà mẹ ông ra sông Mã gánh nước thấy một quả bầu trôi quẩn quanh chỗ bà lấy nước, mấy lần bà đẩy ra xa, nhưng quả bầu lạ cứ quẩn quanh mãi bên chân, cuối cùng bà gánh nước và mang theo quả bầu ấy về nhà. Không bao lâu sau bà mang thai rồi sinh nở.
Khi ông sinh ra, cùng lúc ấy trong nhà có ánh hào quang. Ít lâu sau chồng mất, bà đưa con về quê ngoại Nam Trịnh nuôi con khôn lớn. Ngay từ bé, Đào Cam Mộc đã có sức vóc cường tráng, to khỏe hơn người. Có lần thuyền vua Lê Đại Hành tuần du trên sông Mã mắc cạn, quân lính dùng mọi cách mà thuyền vẫn không nhúc nhích. Thấy vậy ông vội lội xuống sông, dùng mưu và sức khỏe của mình đẩy thuyền đi băng băng. Vua Lê cảm phục chàng trai thông minh, có sực lực hơn người bèn vời vào kinh đô và sau này làm quan dưới thời vua Lê Long Đĩnh (1006-1009), được phong chức Chi hậu.
Về công lao của Thái sư Á vương Đào Cam Mộc, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết khá rõ:
Sau khi vua Lê Đại Hành mất, các vua về sau ăn chơi xa xỉ, không màng gì tới triều chính và muôn dân trăm họ, trong nước người dân ca thán, bên ngoài giặc Tống đang chờ thời cơ mang quân sang xâm lược nước ta.
Trước thế giặc lăm le ngoài bờ cõi, lòng người dân phân tâm, lúc này dân gian đồn rằng trên cây cổ thụ bị sét đánh ở châu Cổ Pháp hiện lên dòng chữ: “Gốc cây thăm thẳm. Ngọn cây xanh xanh. Cây hòa đao rụng. Mười tám hạt thành. Cành đông xuống đất. Cây khác lại sinh. Đông mặt trời mọc. Tây sao náu hình. Khoảng sáu bảy năm. Thiên hạ thái bình”. Nội dung những dòng chữ này ý nói vua non yếu, bầy tôi cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, trải sáu hoặc bẩy năm thì thiên hạ thái bình.
Đến khi Long Đĩnh băng hà, vua nối ngôi còn bé, Lý Công Uẩn cùng với Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân tùy long (quân hầu của vua) vào làm túc vệ. Chi hậu Đào Cam Mộc dò biết Lý Công Uẩn có ý muốn nhận việc truyền ngôi, nhân lúc vắng người hỏi để gợi xem: “Mới rồi chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu không kham nổi nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nhao nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ khư khư giữ tiểu tiết làm gì”.
Lý Công Uẩn thận trọng, ngại Đào Cam Mộc có bụng khác, giả giận mắng rằng: “Sao ông nói thế, tôi phải bắt ông nộp quan”. Ông thong thả nói với Lý Công Uẩn: “Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi, thì tôi không phải là người sợ chết”. Lúc đó Lý Công Uẩn mới thổ lộ: “Tôi đâu nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó thôi”.
Hôm khác, ông lại nói với Lý Công Uẩn: “Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa đã hiện ra rồi không thể che dấu được nữa. Chuyển họa thành phúc chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi ngại gì nữa”. Lý Công Uẩn nói: “Tôi đã hiểu ý ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì nên tính kế thế nào?”. Đào Cam Mộc bèn trả lời: “Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng người chịu theo. Hiện nay trăm họ mệt mỏi kiệt quệ, dân không chịu nổi, Thân vệ nên lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau mà kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được”
Đào Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, đều họp cả ở trong triều bàn rằng: “Hiện nay dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo hành ngược không muốn về…có lòng suy tôn quan Thân vệ… nhân lúc này cùng nhau sách lập Thân vệ làm Thiên tử”.
Thế rồi cùng nhau dìu Lý Công Uẩn lên chính điện, lập làm Thiên tử, lên ngôi Hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô “vạn tuế” vang dậy cả trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy niên hiệu Thuận Thiên, năm 1010 mở đầu vương triều Lý.
Từ khi lên ngôi, Lý Công Uẩn vừa cảm phục ghi ơn, vừa tin tưởng giao cho Đào Cam Mộc những công việc quan trọng trong triều chính, phong cho Đào Cam Mộc là Nghĩa Tín hầu và gả con gái trưởng là công chúa An Quốc cho ông.
Năm Ất Mão (1015), Thuận Thiên thứ 6, Đào Cam Mộc trút hơi thở cuối cùng, tôn vinh và ghi công của ông, triều đình nhà Lý đã truy phong Đào Cam Mộc là Thái sư Á vương.
Hiện nay, tại huyện Yên Định quê hương thái sư Á vương Đào Cam Mộc có 3 di tích thờ phụng đệ nhất công thần tôn phù Lý Công Uẩn, vị vua khai sinh triều Lý. Đó là đền thờ ở làng Nam Thạch, Yên Trung quê ngoại và đền thờ ở làng Bùi Hạ, xã Yên Phú.
Ở Tràng Lang, Định Tiến, theo các cụ cao niên cho biết, khu thờ ngài ở đây được bố trí theo kiểu “tiền thần, hậu phật”, đền gắn với chùa, vì vậy, di tích này có tên gọi là “Hùng Phúc cổ tự”, thần được thờ cùng với Phật. Ngôi chùa được xây dựng vào năm Kỷ Dậu (1069), đời vua Lý Thánh Tông để nhớ ơn vị khai quốc công thần này. Ở bên tả tòa tiền điện, tượng Thái sư Á vương Đào Cam Mộc đầu đội mũ, mặt chữ điền, mắt sáng, môi son, râu dài, hai tay cầm cân đai, chân đi hài, mình khoác hoàng bào…toát lên vẻ uy nghi, hùng dũng. Di tích này hiện còn giữ được tấm bia cổ, dựng vào năm Bính Ngọ (1606).
Đền thờ ở làng Nam Thạch, Yên Trung quê ngoại trải thời gian cũng đã có đổ nát từ lâu, trong đền có bức đại tự ghi ơn công đức của ngài: “Sinh vi Lý tướng, tử vi Lê thần”, nghĩa là: Sống là tướng Lý, chết làm thần nhà Lê.
Hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tôn vinh vương triều Lý trong lịch sử và những người có công với dân với nước, mới đây đền thờ Thái sư Á vương Đào Cam Mộc được đầu tư nhiều tỷ đồng đã và đang tiến hành trùng tu, tôn tạo với nhiều hạng mục. Thiết tưởng Hà Nội cũng nên có một con đường mang tên Thái sư Đào Cam Mộc.