Thông thoáng nhưng cần thận trọng
GN - Với toàn bộ nội dung được thể hiện qua 9 chương, 8 mục và 68 điều, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 có ý nghĩa quan trọng nhằm thể chế hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đại hội VIII diễn ra trong bối cảnh Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo sắp có hiệu lực -
tạo ra nhiều cơ hội lẫn thách thức đối với Giáo hội
Sự xuất hiện của bộ luật phù hợp với chủ trương cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giúp cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này dần hoàn thiện và cũng tạo nên những bước đi thông thoáng nhưng đầy thận trọng trong sự vận hành của các tổ chức tôn giáo ở VN.
Những điểm mới
Điểm mới đầu tiên và quan trọng có thể nhận thấy trong luật này là mở rộng chủ thể thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Cụ thể hóa nội dung này, khoản 1, Điều 6 của luật đã nhắc lại nguyên văn: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”.
Theo đó, luật quy định mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo; quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.
Điểm mới tiếp theo đáng chú ý là luật đã loại bỏ một số từ ngữ được sử dụng khá phổ biến trong Pháp lệnh như “hội đoàn” (mang tính chuyên biệt của một tôn giáo), “tổ chức tôn giáo cơ sở”. Ngược lại, từ ngữ mới như “lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo”; “chức việc”, “sinh hoạt tôn giáo”, “địa điểm hợp pháp”, “người đại diện” đã được sử dụng. Đặc biệt, lần đầu tiên, khái niệm “tổ chức tôn giáo trực thuộc” được nhắc lại rất nhiều lần trong luật. Theo đó, “tổ chức tôn giáo trực thuộc” như hiện nay luật quy định được hiểu bao hàm cả tổ chức tôn giáo cơ sở, hội đoàn, dòng tu, các ban, ngành, viện từ Trung ương đến cơ sở của tổ chức tôn giáo. Và các tổ chức này khi thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất sẽ thực hiện theo quy định tại Điều 28, Điều 29 của luật.
Trong khi đó, một số nội dung theo quy định của Pháp lệnh thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, nay Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 quy định và phân cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương. Theo đó, việc công nhận tổ chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thành lập trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo; tiếp nhận thông báo giải thể trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo v.v... sẽ do cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương đảm trách nhằm giảm tải công việc cho Thủ tướng Chính phủ, tăng thẩm quyền cho cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc tham mưu quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngoài ra, vấn đề tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo cũng được luật làm rõ. Điều 30 của luật quy định tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Đối với tổ chức tôn giáo được công nhận trước ngày luật có hiệu lực là pháp nhân phi thương mại, kể từ ngày luật này có hiệu lực, các tổ chức tôn giáo này phải có trách nhiệm điều chỉnh, đăng ký hiến chương tại đại hội gần nhất theo quy định.
Đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc, bên cạnh việc đáp ứng các điều kiện quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 21 của luật, còn phải được tổ chức tôn giáo đề nghị và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký mới trở thành pháp nhân phi thương mại. Đây là một nội dung mới, quan trọng của luật nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Liên quan đến nội dung phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc; Luật 2016 đã chia làm hai nội dung: Phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc và bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc.
Pháp lệnh quy định gộp chức sắc, chức việc trong cùng các điều khoản và điều chỉnh theo hướng tổ chức tôn giáo gửi bản đăng ký người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sau thời hạn là 20 ngày nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền không có ý kiến khác thì người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử được hoạt động tôn giáo theo chức danh đã được đăng ký.
Luật mới đã tách bạch, phân định rõ chức sắc, chức việc. Trên cơ sở phân định rõ chức sắc, chức việc, luật quy định cách thức thực hiện đối với việc phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc (Điều 33) khác với bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc (Điều 34). Qua đó có thể giải thích rõ trách nhiệm, vai trò của chức sắc, chức việc trong tổ chức tôn giáo cũng như trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân có liên quan, đặc biệt với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Và từ việc tách bạch này cũng yêu cầu nội dung nào cần thông báo, nội dung nào cần đăng ký để nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tôn giáo trong hoạt động tôn giáo.
Nhiều áp lực
Xét trên tổng thể, nếu có sự so sánh với Pháp lệnh thì Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 tạo nên những cơ chế khá thông thoáng với hoạt động tôn giáo. Tuy vậy, cũng từ sự cởi mở này, Giáo hội sẽ đối mặt với nhiều áp lực trong việc hoạch định các Phật sự nhằm tạo niềm tin và giữ gìn tín đồ trước hiện tượng “trăm hoa đua nở” về tình hình tôn giáo ở VN.
Điều này thể hiện khá rõ thông qua việc Nhà nước rút thời gian được công nhận là tổ chức tôn giáo từ 23 năm giảm còn 5 năm. Nếu như Pháp lệnh quy định tổng thời gian kể từ khi được Ủy ban Nhân dân cấp xã chấp thuận sinh hoạt tôn giáo đến đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo là 23 năm thì theo luật, khoảng thời gian đó chỉ còn đủ 5 năm liên tục trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Với quy định này, sẽ có nhiều tôn giáo mới xuất hiện ở VN một cách dễ dàng nếu đáp ứng các yêu cầu theo luật.
Không những thế, sẽ có nhiều cá nhân hoạt động tôn giáo là người nước ngoài xuất hiện trong thời gian tới đến VN vì luật cũng được bổ sung theo hướng tạo điều kiện cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại VN.
Theo đó, người nước ngoài cư trú hợp pháp tại VN được Nhà nước VN tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với các quyền cụ thể như sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người VN thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật VN.
Đối với chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại VN thì được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam. Riêng nhóm người nước ngoài cư trú hợp pháp tại VN có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung có thể thuê, mượn địa điểm để sinh hoạt tôn giáo; người nước ngoài có thể được tổ chức tôn giáo ở VN phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị; tổ chức tôn giáo ở VN có quyền gia nhập, chấm dứt tham gia tổ chức tôn giáo nước ngoài;…
Ngoài ra, một số nội dung hoạt động chỉ cần thông báo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để các cơ quan này biết, phối hợp với các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc để các hoạt động tôn giáo diễn ra đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn, bảo vệ môi trường... Với quy định này, người đại diện cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo như thông báo lễ hội định kỳ; thông báo về khoản thu, mục đích sử dụng khoản thu từ việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng; thông báo hoạt động của cơ sở đào tạo; thông báo người được phong phẩm hoặc suy cử; thông báo thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành; thông báo cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc; thông báo hội nghị thường niên…
Đặc biệt, những quy định của luật ở Chương VI về việc tôn giáo tham gia hoạt động xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo theo quy định của pháp luật về xuất bản và quy định khác; tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo.... là những bước tiến rất nhanh và tích cực về nhận thức của Nhà nước đối với vai trò tôn giáo trong xã hội. Trong phương diện này, Giáo hội cũng sẽ gặp nhiều áp lực vì đây không phải là thế mạnh trong đường hướng hành đạo nếu so với các tôn giáo khác.
Bảo Thiên
Đón đọc
Kỳ 3: Xây dựng cơ chế chủ động (Ý kiến của các chuyên gia pháp lý đầu ngành, các nhà nghiên cứu liên quan đến công tác lập pháp để lắng nghe quan điểm về Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 và lời góp ý từ họ dành cho Giáo hội đối với việc áp dụng luật)
____________
Bài liên quan: Nhiều cơ hội giữa muôn trùng thách thức ||