Chùa Hà có tên chữ là Thánh Đức tự, cùng với đình Bối Hà, lập thành cụm di tích đình - chùa Hà nằm trên mảnh đất, trước kia thuộc làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, nay thuộc phố Chùa Hà, thôn Trung, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Liên quan đến lịch sử hình thành ngôi chùa này có hai truyền thuyết. Theo truyền thuyết thứ nhất: chùa có từ thời vua Lý Thánh Tông (1054-1072). Khi ấy nhà vua đã ngoài 40 tuổi mà chưa có con nên đi đến một ngôi chùa trên vùng Dịch Vọng ngày nay để cầu tự, sau đó sinh ra Thái tử Càn Đức, sau này lên ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông. Ngôi chùa nhà vua đến về sau đổi tên thành chùa Thánh Chúa. Trên đường về, nhà vua lại ghé thăm một ngôi chùa khác và ban tiền để sửa chùa. Ngôi chùa này chính là chùa Hà và do vậy mà chùa mang tên chữ là: Thánh Đức tự.
Thuyết khác lại nói rằng ngôi chùa này dựng lên từ thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) để nhà vua tỏ lòng biết ơn đối với các đại thần Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Đinh Liệt vì đã phế bỏ Nghi Dân và giúp mình lên ngôi vua (năm 1460).
Trải qua bao thời kỳ lịch sử, chùa Thánh Đức đã bị phá hủy nhiều lần. Đến đời vua Lê Hy Tông (1675-1705) có hai người quê làng Thổ Hà tỉnh Bắc Giang sang ở chùa để bán các đồ gốm sứ ở chợ trong và ngoài thành Thăng Long. Nhờ buôn bán phát đạt, hai gia đình này tình nguyện công đức số tiền lớn cùng nhân dân trong xóm xây dựng lại chùa với quy mô lớn bằng gạch ngói vào năm Chính Hòa (1680). Từ đó hai làng Thổ Hà và Dịch Vọng Trung kết nghĩa, đặt tên xóm có ngôi chùa là Bối Hà và chùa có tên nôm là chùa Hà.
Trong kháng chiến chống Pháp, đầu năm 1947, chùa Hà bị giặc phá huỷ chỉ còn sót lại tam quan, một phần Phật điện với một số tượng Phật khác. Sau đó, cụ Đức - người trông coi chùa ngày ấy - đã dựng lại mái chùa bằng tre gỗ đơn sơ. Năm 1988, bằng tiền công đức của dân, từng bước chùa được tu sửa với diện mạo dựa theo lần trùng tu lớn năm 1680.
Nay đến thăm chùa Hà, chúng ta sẽ bắt gặp một công trình kiến trúc được xây dựng trong một không gian thoáng đãng, ẩn mình dưới những vòm cây cổ thụ. Tam quan xây hai tầng có hệ thống cầu thang lên ở phía trái. Tầng trên xây kiểu chồng diêm, giữa bờ đinh mái thượng đắp nổi hình mặt trời lửa đặt trên hình hổ phù, hai đầu kìm đắp hình rồng đuôi xoắn, miệng ngậm bờ nóc, mái lợp giả ngói ống. Tầng dưới chia làm ba gian với 12 cột trụ xây nổi trên mặt tường.
Tầng hai tam quan treo chuông đồng Thánh Đức tự chung niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799), một di vật thời Tây Sơn còn bảo quản nguyên vẹn. Chuông cao 1m20, chu vi đáy 1m80, được đúc tinh tế, phần trên bốn múi chuông được khắc nội dung văn chuông, phần dưới được khắc tứ linh: long ly quy phượng rất sống động. Phía trên là hai con bồ lao đầu nhìn về hai phía, bốn chân gắn chặt vào chuông.
Bước qua tam quan vào bên trong sân chùa, du khách sẽ nhìn thấy một vườn cây xanh, hồ nước hình bán nguyệt và cây đa cổ thụ. Bên cạnh hồ nước là bia đá bốn mặt Thánh Đức tự bi mới được phục chế gần đây. Ba mặt bia khắc chữ Hán, một mặt bia khắc chữ Quốc ngữ. Bia chùa do Tri huyện Nguyễn Đình Trạch soạn vào năm Chính Hòa thứ 16 (1695).
Chùa chính gồm 5 gian, kết cấu kiểu chữ Đinh có tiền đường và thượng điện, Tam bảo. Tòa Phật điện của chùa được bố trí theo nhiều lớp. Lớp cao nhất là ba pho Tam Thế thường trụ diệu pháp thân, đại diện cho Đức Phật ở thì hiện tại, quá khứ và tương lai. Lớp thứ hai có tượng A Di Đà có kích thước lớn, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. Phía dưới tượng A Di Đà là tượng A Nan Đà, Đức Ông. Phía ngoài chính điện giáp với đại bái là tượng Thích Ca sơ sinh. Lớp tượng ở nhà bái đường nổi bật nhất là tượng Thiên Tướng Hộ Pháp cao lớn mặc áo giáp vàng. Hai bên đầu hồi còn đặt 8 vị Thần Vương Hộ Pháp.
Phía sau chính điện của chùa là Điện Mẫu. Kiến trúc Điện Mẫu bao gồm phía trước là Phương đình, phía sau là Thần điện. Trong Phương đình có đặt đỉnh hương và đôi hạc lớn. Phía sau Phương đình là nhà bái đường gồm 5 gian làm theo kiến trúc cổ. Gian chính giữa đặt Mẫu Thượng Thiên trang phục màu đỏ, bên trái là tượng Mẫu Thượng Ngàn trang phục màu xanh, bên phải là tượng Mẫu Thủy trang phục màu trắng. Ngoài ra còn có tượng các ông hoàng, bà chúa, tượng cô cậu khác. Đặc biệt là bức phù điêu Bát Tiên treo bên trái hồi rất sống động. Bàn thờ phía dưới cùng của Điện Mẫu là Ngũ Hổ thần quan, hay gọi nôm là Quan Năm Dinh, biểu tượng bằng 5 mãnh hổ với màu sắc khác nhau.
Trải qua một thời gian dài tồn tại, chùa Hà vẫn lưu giữ được nhiều di vật có giá trị nghệ thuật như: bộ tượng Tam Thế Phật, tượng A Di Đà, tượng Đức Chúa Ông và Thánh Tăng, 18 tấm bia đá niên hiệu thời Nguyễn, nhiều câu đối, hoành phi có nội dung ca ngợi cảnh đẹp của chùa và sự linh thiêng của Phật pháp và những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật thuộc thế kỷ 19. Ở chùa Hà còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ bằng gốm như bát hương, chĩnh, ang, vại... thể hiện sự tôn kính và tín ngưỡng của người Thổ Hà xưa kia.
Bên cạnh khu vực chùa Hà là đình Bối Hà thờ Thành hoàng làng Triệu Chí Thành. Đình được xây dựng từ năm 550 thời vua Triệu Việt Vương.
Đình Bối Hà nhìn về hướng tây, kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, tuân thủ quy luật âm dương: tiền quảng đại, hậu thần mật; tiền náo nhiệt, hậu túc tĩnh. Phía ngoài là thiên trụ, trên đắp phượng hoàng chầu tứ phương và hổ phù, nổi bật là câu đối: Đền miếu huy hoàng, nhân kiệt địa linh thiên cổ mãi; Uy thần vời vợi, người khỏe của lắm vạn năm dài.
Cạnh thiên trụ là một nghi môn nhỏ, trên đề: Bối Hà miếu. Đi qua nghi môn vào sân đình, tiếp đến là thiên trụ thứ hai ngăn cách giữa sân lớn và sân nhỏ, đỉnh thiên trụ đắp nổi đôi nghê. Trên thiên trụ là đôi câu đối: Thiên trụ vững vàng, đối diện Tản Viên ngời thắng cảnh; Đền thần vòi vọi, chảy hoài Tô Lịch tỏ danh lam. Đi từ sân lớn lên sân nhỏ ngước lên phía trên là nóc đình được đắp đôi rồng chầu mặt trời, đầu bờ nóc được khóa chặt bởi hai đầu rồng.
Trong đình, ngoài bát bửu, lư hương đồng, long ngai, bài vị thì đình Bối Hà còn có đôi hạc đứng vững chắc trên lưng rùa.
Đình - chùa Hà thu hút ngày càng đông khách tham quan du lịch gần xa. Cứ đến ngày sóc vọng (mùng 1 và 15 âm lịch) hàng tháng, đình chùa Hà chật ních người đến thắp hương lễ Phật cầu Thánh. Họ cầu mong Phật, Thánh đem lại cho mình nhiều may mắn và phúc lộc trong cuộc sống. Điều đặc biệt là mặc dù không phải là nơi thờ Nguyệt lão (ông tiên coi quản việc nhân duyên) nhưng từ lâu chùa Hà đã được giới trẻ truyền tụng là một nơi rất linh nghiệm trong việc cầu duyên. Hầu như ngày nào cũng có những thiện nam, tín nữ đến đây cầu khấn thần phật mong cho duyên vừa đẹp ý, sớm gặp người trong mộng. Đó là lý do để chùa Hà trở thành một ngôi chùa đặc biệt, khác với những ngôi chùa trên đất Hà thành.
Hiện nay đình và chùa Hà thường tổ chức các lễ hội: Ngày 11/1 âm lịch kỷ niệm ngày sinh của Thành hoàng Triệu Chí Thành. Ngày 12/8 âm lịch kỷ niệm ngày hóa của Thành hoàng. Ngày 12/2 âm lịch là ngày vào đám cầu phúc, cầu mưa thuận gió hòa, người khỏe của nhiều. Trong lễ hội thường diễn ra các tiết mục như đánh cờ người, đánh đu, kéo co, hát cửa đình, múa sư tử ...
Chùa Hà là một địa chỉ văn hóa của thủ đô bởi những giá trị lịch sử và giá trị tâm linh tiềm ẩn trong khối kiến trúc bình dị mà thâm nghiêm. Năm 1982, chùa đã được gắn biển “Di tích cách mạng”. Tháng 12/1996, chùa đã được Bộ Văn hoá Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử-văn hóa.