NSGN - Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
Tôn giả Tịch Thiên
Tương truyền, do tích tụ nhiều căn lành nên ngay khi còn nhỏ ngài đã nhiều lần mộng thấy Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi. Rồi khi sắp nhận ngôi vua, lại thấy cả Văn Thù và hóa thân của Quán Thế Âm là ngài Tara. Văn Thù ngồi trên ngai vàng nói: “Ở đây không có chỗ cho hai người”. Còn Tara thì tưới nước nóng lên đầu Tôn giả nói: “Vương quyền chính là nước sôi dầu bỏng của địa ngục. Ta đang tấn phong cho ngươi với nước này đây”.
Do giấc mộng ấy, trước ngày lên ngôi, ngài đã trốn khỏi kinh thành. Sau 21 ngày lang thang trong rừng, vừa khát vừa đói, ngài nhìn thấy dòng suối, định uống thì một phụ nữ xuất hiện. Cô khuyến cáo nước có độc và dâng cho ngài một loại cam lồ. Uống xong, ngài hoan hỷ khi biết mình sẽ được gặp thầy của cô gái, người mà theo cô là đạo đức, từ bi và đã thành tựu pháp Văn Thù Kim Cang Sư Tam Muội.
Sau 12 năm tu tập, Tịch Thiên chứng được pháp Văn Thù Tam Muội và thấy được thầy mình chính là Văn Thù Sư Lợi và người phụ nữ kia chính là Tara.
Sau khi được Văn Thù Kim Cang Sư Tam Muội, ngài đi về hướng Đông, xin vào làm việc trong triều của vua Pancamasimba. Ngài truyền dạy nhiều kỹ nghệ mới lạ cho dân và dùng Phật pháp giúp vua điều hành đất nước. Ngài được phong chức thừa tướng. Để tưởng nhớ đến Văn Thù, ngài luôn đeo bên mình một thanh kiếm gỗ.
Các đại thần trong triều, do ganh tức nên muốn tìm cách hãm hại, bèn tâu với vua về thanh kiếm gỗ, viện cớ đó không thể là vật bảo vệ vua khi có nguy biến. Vua tin lời, bắt thừa tướng phải rút kiếm ra cho mình xem. Nhưng Tịch Thiên không chịu. Vua càng nhất quyết đòi xem. Cuối cùng Tịch Thiên thưa: “Nếu bệ hạ muốn xem thì nên đến chỗ trống và lấy tay che mắt phải lại, chỉ nhìn bằng mắt trái”. Vua chấp thuận. Kiếm vừa rút khỏi vỏ, hào quang lóe lên và mắt trái của vua rơi xuống đất. Vua biết Tịch Thiên không phải là người bình thường bèn hết lòng sám hối, nhưng Tịch Thiên nhặt mắt bỏ lại vào tròng, rồi xin cáo từ. Ngài từ bỏ chức thừa tướng, đến tu viện Nalanda xin xuất gia, thọ giới và được đặt tên là Shantideva (Tịch Thiên).
Tuy xuất gia ở tu viện nhưng Tịch Thiên lại học pháp với Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi trong định. Chúng Tăng chỉ thấy Tịch Thiên ăn và ngủ, không hề thấy học hành cũng như tọa thiền. Nhân đó, một số Thượng tọa học giả họp lại, bàn kế trục xuất ngài ra khỏi tu viện. Họ bày ra cái gọi là trùng tu kinh luận, hy vọng Tôn giả sẽ tự động rút lui vì không làm được.
Ban đầu ngài từ chối, nhưng do các Thượng tọa cứ nài nỉ nên ngài đành chấp thuận, với điều kiện phải tạo cho ngài một tòa sư tử. Đề nghị được chấp thuận.
Sau khi lên tòa, Tịch Thiên hỏi:
- Chư vị muốn tôi tụng lại các kinh luận đã có từ trước hay những sáng tác mới sau này?
Các vị Thượng tọa trả lời:
- Những sáng tác mới sau này.
Tịch Thiên bắt đầu tụng quyển Hạnh Bồ-tát. Khi tụng đến câu “Khi có và không không còn khởi trong tâm…” thì ngài bay lên hư không và biến mất, nhưng tiếng của ngài vẫn còn vọng đến câu kệ cuối của quyển Hạnh Bồ-tát. Không thấy Tịch Thiên đâu nữa, mọi người hối hận trở về thì thấy trên bàn trong phòng ngài có ba tập sách. Một là Kinh tập yếu, hai là Giáo tập yếu, và ba là Hạnh Bồ-tát. Tương truyền, Kinh tập yếu là của Bồ-tát Long Thọ. Hai cuốn sau là của Tịch Thiên.
Nhập Bồ-tát hạnh
Phần Nhập Bồ-tát hạnh này nương vào bản dịch của Ni sư Trí Hải mà tóm lược. Vì tóm lược nên chỉ nêu đại ý, không thể chi tiết rõ ràng như bản chính văn. Vì thế không gì hơn là tham cứu bản chính văn đó.
Sách gồm toàn kệ tụng và được chia thành 10 chương. Đầu tiên là nêu Lợi ích của tâm Bồ-đề, kế là Sám hối tội nghiệp, và kế nữa là Gìn giữ tâm Bồ-đề. Sau là chương Không buông lung, Gìn giữ chánh tri, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ và cuối cùng là kệ Hồi hướng.
1- Lợi ích của tâm Bồ-đề
Phần này có 36 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu1.
Như bao tập luận khác, mở đầu thường là phần kính lễ của tác giả đối với Tam bảo và chư hiền thánh. Cũng nêu rõ luận vốn không, chỉ do nhân duyên mà thành có. Lập luận là cốt răn mình. “Không ham giảng đạo, chẳng rành văn chương”, chỉ cốt nuôi lớn tín tâm của mình. Tuy vậy, ai có nhân duyên với luận thì luận vẫn mang lại lợi ích cho người đó.
Kế là răn nhắc thế gian vô thường, được thân người lại không rơi vào bát nạn là quý. Nhưng đa phần, căn lành thường yếu mà nghiệp ác dễ sinh. Nếu không có Phật pháp của Đấng Chí Tôn, cũng không biết nương vào việc phát Bồ-đề tâm thì khó mà thắng nổi các chướng duyên.
Bắt đầu từ kệ 7 trở đi, là nêu lợi ích của Bồ-đề tâm.
1- Nêu rõ Bồ-đề tâm là cội nguồn hạnh phúc mà chư Phật đã chứng minh. Vì thế muốn dứt khổ cho mình, muốn cầu vui cho người thì không được quên tâm này.
2- Chỉ cần một lần phát được tâm này là đã thành con Phật. Đó là nhân duyên giúp chuyển thân bất tịnh của chúng sinh thành thân Phật tịnh thanh.
3- Bậc đạo sư trí tuệ thì biết không gì tôn quý bằng tâm Bồ-đề, ai muốn thoát sông mê thì phải giữ vững tâm này. Cũng nêu trong các hạnh lành, không gì bằng giữ vững tâm Bồ-đề. Bởi hạnh lành như cây chuối cho bẹ chuối xong là tàn. Cây Bồ-đề thì “không ngưng kết trái đơm bông cõi đời”. Vì thế, muốn thoát nguy khổ ở đời, không gì bằng nương tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề trong giây lát có thể giúp thoát các tội nặng.
4- Tâm Bồ-đề có hai. Một là tâm nguyện. Hai là tâm hạnh. Nguyện là còn trong vòng mong muốn. Hạnh thì đã biến mong muốn thành hiện thực. Nguyện Bồ-đề đủ giúp hành giả an vui, nhưng nói đến kho công đức và việc cứu khổ Tam đồ thì phải có hạnh Bồ-đề. Hạnh Bồ-đề bất thối, mới có thể cứu chúng sinh thoát khỏi cảnh trầm luân.
5- Phát đại tâm rồi thì “Dù khi đang ngủ hay không nghĩ gì/ Thiện căn tiếp tục tràn trề/ Như hư không nọ chẳng hề sút sa”. Công đức phát tâm Bồ-đề của hàng sơ cơ rất lớn (đã được Phật dạy trong bản kinh Diệu lý hỏi thưa). Vì sao? Vì phát Bồ-đề tâm là phát tâm làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Việc phát tâm làm lợi ích cho chúng sinh này, công đức không gì bì được. Ngài Tịch Thiên đã đưa ra những so sánh, giúp độc giả thấy được vì sao nói công đức phát Bồ-đề tâm là lớn:
- Chỉ vì cái khổ đau nhức của một người mà giúp đỡ còn lưu lại công đức từ tâm, huống là phát đại tâm vì hạnh phúc của muôn loài, công đức không thể tính kể.
- Chỉ san sẻ đôi lần thức ăn cho người, còn được người đời kính lễ, huống là mang lại ấm no hạnh phúc cho người từ kiếp này sang kiếp khác, công đức khó nghĩ bàn.
- Vì bản thân mà phát Bồ-đề tâm có khi còn chưa làm được, huống là phát đại tâm vì tất cả mọi người, công đức tất nhiên phải lớn.
- Chỉ nghĩ lành cho một chúng sinh còn hơn lễ lạy pháp tòa Như Lai, huống là “Mang cho tất cả muôn nhà niềm vui”, công đức đương nhiên bất tận.
- Kẻ thọ ơn mà biết đền đáp, công đức đã lớn, “Huống là Bồ-tát gia ân/ Với niềm vui sướng chẳng cần chờ xin”.
- Người đời muốn xa rời khổ não nhưng khổ não càng tăng. Chỉ Bồ-tát có trí tuệ Như Lai dẫn đường, mới biết cách giúp người đời phá si mê, xa lìa khổ nạn, phát đại tâm... Chính vì thế, công đức phát đại tâm của Bồ-tát không thể nghĩ bàn.
Nêu lợi ích của việc phát Bồ-đề tâm xong, Bồ-tát Tịch Thiên răn nhắc: Với ân nhân mà tâm sinh nghĩ quấy thì “Bao nhiêu nghĩ, bấy nhiêu phân đọa đày”. Còn nếu thật tâm nói những lời ca tụng thì gặp quả phúc đến hai ba lần, dù gặp khó khăn cũng “Không sinh lầm lỗi, còn tăng hạnh lành”.
Sau cùng là lời kính lễ của Tôn giả đối với kẻ đã phát đại tâm: “Ai người phát đại tâm trân quý/ Cho tôi xin kính lễ chân thành/ Cho vui đến kẻ hại mình/ Tôi sinh quy kỉnh suối lành từ bi”. Ai là kẻ đã phát tâm quảng đại, Tôn giả xin chân thành kính lễ. Với kẻ hại mình, vẫn có tâm thí xả mang an vui đến cho họ, tức lòng từ đã đạt đỉnh điểm, không còn phân biệt kẻ ghét người thương thì Tôn giả xin quy kỉnh tâm từ bi ấy.
2- Sám hối tội nghiệp
Phần này có 65 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Mở đầu, là phần cúng dường của Bồ-tát đối với Tam bảo. Thánh tăng, bản văn xuôi ghi là chư Bồ-tát.
Phẩm vật cúng dường bao gồm việc gìn giữ tâm tối tôn, thân tâm hiện có, cùng các cảnh giới vi diệu mà Tôn giả đã “Bằng tâm tưởng con nay tạo tác/ Hiến dâng Ngài chư Phật Thế Tôn…”. Tôn giả chỉ có chừng đó để cúng dường, không còn gì khác, vì “Con nghèo, phước đức trắng tay”. Phước đức nói đây, chỉ cho các loại phước thiện hồi hướng quả báo trời người, Tôn giả không có nên nói trắng tay. Tôn giả chỉ có tâm Bồ-đề và các cảnh giới vi diệu do thiền định mà ra.
Tâm Bồ-đề là nền tảng làm lợi ích cho chúng sinh không biết nhàm mỏi. Giữ gìn tâm đó để cúng dường là dùng công hạnh để cúng dường, thực hiện 10 lời nguyện của Bồ-tát nói trong kinh Hoa nghiêm.
Dùng cảnh giới vi diệu (như cảnh giới Cực lạc được mô tả trong kinh A Di Đà) để cúng dường, vì theo hành trạng của Tịch Thiên, Tôn giả đã được Văn Thù Kim Cang Sư Tam Muội. Những cảnh giới ngài trải qua, nghiệp thức phàm phu khó thấu được, chỉ có thể mượn những hình tượng vi diệu ở thế gian để hiển thị. Trong phần luận này, chúng ta gặp nhiều bài kệ đại loại như “Trăm ngàn y phục nhuyến nhu/ Cùng đồ trang sức nhiệm mầu tuyệt luân/ Trang nghiêm Bồ-tát pháp thân/ Văn Thù, Biến Cát, Quan Âm các ngài”; hay “Đây hương bột vượt ngoài tam thế/ Con dùng thoa thân thể Như Lai/ Kim thân vi diệu các ngài/ Như vàng khéo luyện sáng ngời pháp thân” v.v... Cúng dường cảnh giới vi diệu, cũng là cúng dường sự thanh tịnh của thân tâm, kết quả của việc tinh tấn tu đạo. Bởi cảnh giới là sở hiện của tự tâm. Cảnh giới muốn vi diệu, tâm phải thanh tịnh vi diệu.
Mang thân tâm cúng dường, là ý muốn muôn kiếp “làm kẻ tớ hầu chư tôn”, nương công đức của chư tôn mà lợi sinh thẳng tiến, xa lìa ác nghiệp và tội khiên. Cũng nói “Con sẽ hóa thân này muôn ức/ Như vi trần lễ Đức Như Lai”. Không chỉ kính lễ Như Lai trong một đời mà đến ba đời, cũng kính lễ đồng thời Pháp và Tăng. “Chư Tăng giới hạnh kiên trì/ Cùng hàng thánh chúng trụ trì xà-lê” được Tôn giả kính lễ. Kính lễ cả ngôi xá-lợi thiêng liêng.
Bài kệ 27 trở về sau, là phần sám hối. Sám hối các tội nghiệp:
- Đã tạo từ vô thủy, tự mình làm hoặc bảo người khác cùng làm.
- Do mê muội, không phân được đâu chánh đâu tà, nên đã vui theo những kẻ ác nhân.
- Do phiền não làm động thân ý mà não hại người trên là Tam bảo, sư trưởng và song thân.
- Do ngu si mà vì người thân kẻ oán tạo tội.
- Không nhận thức thân này chóng mất, nên đã để tham sân xúi giục tạo đủ nghiệp tà.
Sau khi liệt kê các nghiệp tội đã gây, Tôn giả có lời răn nhắc: Muôn sự ở đời như chiêm bao, trôi qua không trở lại, chỉ còn niệm tưởng trong tâm. Thân này như hư vô, biết sám hối rồi, tội có khi chưa sám hết, thân đã không còn. Người chí thân hay kẻ oán cừu rồi cũng thành tro bụi, thế gian chỉ là tấn trò hư huyễn, “Nhưng bao tội lỗi đa mang/ Do tâm yêu ghét rõ ràng còn đây”. Lúc mạng chung, thân bằng có vây quanh thì mọi thống khổ cũng chỉ mình mình chịu, chỉ có thể dựa vào phước phần của mình mà cứu nguy.
Kế, Tôn giả diễn tả cảnh giới khi mất, hồn tiêu phách tán, trăm bề lạc lõng sợ hãi mà trước đây ngài đã từng trải nghiệm. “Phút giây thần thức lìa thân/ Rối ren lắm nỗi, bội phần hoang mang”, “Mắt nhìn dáo dác mông lung/ Vội tìm chỗ trú bốn phương cõi bờ”. Nhưng không thấy một nơi nào ẩn trú an thân, nên lòng càng sợ hãi. Chỉ khi y tựa được Tam bảo, nhận được sự vô úy, mới có thể thoát vòng sợ hãi. Trong cơn hoảng loạn, Tôn giả đã từng “Đem tánh mạng này hiến dâng” Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Âm, Địa Tạng, cùng chư Bồ-tát ở mười phương, y pháp tu hành. Cũng nhận ra rằng “Chết là đi giữa cô đơn/ Giã từ quyến thuộc bỏ luôn thân này/ Độc hành phiêu bạt như mây/ Sao còn bạn với thù ai ích gì/ Tạo điều ác phát sinh đau khổ/ Làm sao ta thoát khỏi khổ nhân/ Tư duy như vậy chuyên cần/ Ngày đêm không nghỉ, thoát vòng tội khiên/ Bao nhiêu tội lỗi gây ra/ Thuộc về bốn trọng sát sinh, dâm tà…/ Tội do vô ý gây ra/ Không hành Phật giới xấu xa đủ điều”.
Cuối là một kệ sám hối, “Khẩn đầu kính lạy chư tôn/ Con xin sám hối muôn vàn tội xưa”, và một kệ hứa nguyện, “Những gì không phải thiện hiền/ Từ nay vĩnh viễn con nguyền xả ly”.
3- Gìn giữ tâm Bồ-đề2
Phần này gồm 33 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Phát Bồ-đề tâm, là phát cái tâm trên cầu Phật đạo, dưới giáo hóa chúng sinh. Giữ gìn Bồ-đề tâm cũng là giữ gìn hai loại phát tâm đó, được thể hiện ngay ở bài kệ đầu “Con vui theo những hạnh lành/ Dứt trừ thống khổ chúng sinh ba đường/ Và đem an lạc cát tường/ Cho bao nhiêu kẻ còn vương khổ sầu”. Câu đầu, nói về phần tự lợi. Vui theo, là muốn nói tự lợi đã được bất thối. Ba câu sau nói đến lợi tha.
Để việc lợi tha được hoàn mãn, thì nhân chánh giác không ngừng tích lũy mà với hạnh hữu tình cũng phải vui theo.
Kệ 4 đến kệ 21 nói về việc lợi ích chúng sinh. Lợi ích đầu tiên là thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân, đốt đèn pháp, hồi hướng công đức đã có nguyện chúng sinh dứt được khổ đau. Kế là tùy căn nghiệp bệnh tật của chúng sinh mà nguyện hiện thân độ sinh. Từ việc tầm thường như “Hóa thân làm món ăn vơi đói lòng”, “Xin làm cầu thuyền chở sang sông”... cho đến “Nguyện làm y sĩ, dược phương” v.v... Việc hiện thân độ sinh này được Tôn giả làm với tâm “Không tiếc lẫn dù là vật chi/ Thân cùng tài sản những gì/ Hạnh lành tất cả hướng về chúng sinh”, cùng với những lời nguyện lợi ích như “Nguyện ai thấy được con thời ích tăng”, hoặc “Người thấy con, kẻ tin người ghét/ Cả hai nhà lợi lạc cùng nên/ Gièm pha lăng nhục đảo điên/ Cũng thành kết một mối duyên Bồ-đề” v.v... Đây là dùng Tứ nhiếp pháp và Lục độ vạn hạnh để nhiếp hóa chúng sinh. Phát tâm như vậy vì hiểu rằng phải xả bỏ hết thì tâm mới thoát khổ, được Niết-bàn. Tức trước sau gì cũng phải xả bỏ, chi bằng bố thí trước cho chúng sinh.
Kệ 22 và kệ 23 nói việc phát tâm đi liền với tiến tu.
Kệ 24 trở đi là tán thán tâm Bồ-đề. Nêu tác dụng và giá trị của tâm Bồ-đề trong việc lợi mình lợi người.
4- Không buông lung3
Phần này gồm 48 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Không buông lung được thể hiện qua các việc:
1- Siêng gìn giữ luật nghi, giới đức.
2- Không được quên thệ nguyện lợi ích chúng sinh, dù chỉ sát-na tâm.
3- Luôn tu tâm dưỡng tánh, là siêng trừ bỏ tham, sân, si.
4- Siêng hành thiện.
Vì sao không được buông lung các việc ấy? Vì thân người khó được, vì không có kẻ thù nào nguy hiểm như phiền não trong tâm. Nếu không dùng giới đức và sự tu hành khắc chế, thấu phá vô minh… thì muôn kiếp trầm luân, thân tâm đọa trong đường khổ, không thể cứu giúp chúng sinh. Trong quan hệ giao tiếp, dù chỉ hứa cho người vài vật nhỏ mà không giữ lời, để việc thất hứa thành thói quen, còn không tránh được nghiệp quỷ đói, huống là hứa làm lợi ích cho chúng sinh. Phải biết giặc phiền não nguy hiểm hơn kẻ thù, vì nó “dẳng dai vô thủy vô chung”, nhưng lại là thứ huyễn hư, chỉ cần có tuệ quang để chiếu phá thì “Giặc phiền não ấy một đi không về”, “Chớ nên nhu nhược không cần gắng tu”. Vì thế với 4 việc trên, không nên buông lung.
5- Giữ gìn chánh tri4
Là muốn nói đến sự tỉnh giác chánh niệm.
Phần này gồm 109 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Trong phần này, giới lại được nhắc đến, nhưng là giới tâm. Chính là dùng chánh niệm buộc tâm điên dại. Nói cách khác, nếu có thể dùng tỉnh giác và chánh niệm buộc tâm điên đảo thì mọi công đức ngay đó hiện tiền. Kệ ghi: “Nếu làm được vậy thường khi/ Thì công đức ấy không gì quý hơn”. Vì vậy “Thà ta mất hết thân tài/ Quyết không tổn hại tâm này được đâu”. Việc đó thiết yếu đến nỗi “Chắp tay thành khẩn khuyên nhau/ Giữ tâm cốt yếu gồm thâu hai điều/ Một là chánh niệm thường theo/ Hai là tỉnh giác lúc nào tâm lung”.
Phải quyết tâm thực hiện cho bằng được vì:
- Điều phục được chúng sinh tâm thì điều phục được chúng sinh ngoài tâm.
- Thú dữ, cừu nhân, địa ngục, la-sát, quỷ thần v.v. thảy đều từ tâm hiện. Tâm tịnh thì những thứ đó cũng mất.
- Nhờ tỉnh giác và chánh niệm mà từ tâm được trưởng dưỡng.
- Thiện hạnh theo đó tăng thạnh.
- Không có tỉnh giác chánh niệm thì tín, đa văn, tinh tấn, tụng kinh, khổ hạnh v.v... thảy đều vô công, vẫn dễ sa vào vòng tội lỗi.
- Không có chánh niệm thì không có tỉnh giác. Không có tỉnh giác thì không có chánh niệm. Không tỉnh giác thì chẳng thể nhớ đến pháp mà ứng dụng. Văn, tư, tu theo đó trôi xuôi.
Kệ 30 nhấn mạnh nếu đủ tín tâm, sẽ thực hành chánh niệm dễ dàng.
Từ kệ 31 trở đi, dạy cách thực hành chánh niệm.
- Tư duy rằng Phật và Bồ-tát có thể thấu suốt mọi niệm tưởng trong tâm mình, vì thế luôn phải biết tàm quý mà chánh tâm.
- Luôn để ý canh chừng tâm. Khi mầm ác manh nha trong tâm thì phải biết đó là cái nhân của tai họa, cần chấm dứt, chánh tâm trở lại. Tức khi tham, sân, ngã mạn, dối, khinh, ly gián, khen mình, chê người v.v. khởi lên thì phải tỉnh giác dứt bỏ. Kệ nói “Hãy như cây đứng, dứt làm ở yên”.
- Cần học, hiểu, tư duy… các kinh điển Đại thừa, nhất là luận của ngài Long Thọ, để có đủ đức tin thực hành chánh niệm, để biết những giới cần thọ, những việc cần làm.
- Ăn mặc ngủ nghỉ vừa đủ.
- Sống ngăn nắp, không xả rác bừa bãi. Không vứt đồ bẩn trên đất sạch hay vào nước trong.
- Thường hay sám hối.
- Những gì phạm giới, nhất quyết không làm.
- Không đảo mắt láo liên nhìn mọi thứ mà phải hạ tầm mắt để giữ tâm.
- Đi, đứng, nằm, ngồi đều luôn rõ biết thân đang làm gì, tâm đang thế nào. Tâm cần trụ pháp để không chạy quàng.
- Đi đâu, cần nhìn rõ trước sau rồi mới đi. Khi có việc muốn nhìn lui thì phải dừng chân rồi hãy xoay người lại nhìn. Tránh tạo tiếng ồn khi di chuyển, xê dịch.
- Khi ăn không ngậm cơm đầy miệng, không nhai ra tiếng, không há to miệng.
- Khi ngồi không duỗi chân ngang, hai tay không chà xát.
- Thường nói lời hòa dịu, thường lộ vẻ vui tươi, không nhăn mặt nhíu mày. Khi phát biểu không nên vung tay, to tiếng.
- Ngủ, đầu nên quay về hướng Bắc, hướng Thế Tôn nhập Niết-bàn. Duy trì tỉnh giác. Thức dậy chớ nằm nướng.
- Không kề cận người khác phái khiến sinh tai tiếng, dị nghị.
- Làm việc gì cần nhận thức suy xét việc nào nên làm, việc nào không nên làm, rồi hãy làm. Đối với việc giải trí thì “Giữa đám người xem phim tán chuyện/ Hãy đoạn tâm tham luyến việc này”.
- Khi làm việc đã định, cần chú tâm làm cho xong rồi hãy qua việc khác, tránh thân lăng xăng, tâm lăng xăng.
- Luôn quán thân người khó được, thân không bệnh, lại được an nhàn là việc khó, nên cần phải thực hành an tâm bất động. Cũng quán thân này bất tịnh, không phải ta, chỉ là phương tiện đưa ta đến bờ giác. Nhưng không vì thế mà vô cớ thí xả thân, chỉ thí xả khi cần lợi ích chúng sinh.
- Khi được nhắc nhở khuyên răn, nên tận tình sửa sai.
- Cần tỉnh giác khi tâm khởi lăng xăng tán loạn. Không vướng vào việc khen chê, ly gián, lợi danh, ngã mạn, dối khinh v.v...
- Cần dừng dứt những việc không cần thiết cho việc tu hành.
- Sinh tâm tán thán và tùy hỷ với những thiện hạnh người đã làm được.
- Xem chúng sinh là Bồ-tát, nhờ họ mà mình được quả vị chánh giác.
- Không bàn pháp sâu với người thiếu trí. Không nói pháp tiểu cho người có trình độ. Không nói pháp cho người thiếu lễ. Không dùng chú thuật âm mưu dối người.
- Hồi hướng mọi công đức cho chúng sinh, cho việc thành tựu chánh giác của mình và người.
Cuối cùng là bài kệ tổng kết: “Tóm tắt, nghĩa không lơ tỉnh giác/ Là luôn luôn quán sát tự tâm/ Và nên y giáo phụng hành/ Chỉ xem toa thuốc không lành bệnh đâu”.
6- Nhẫn nhục
Phần này gồm 134 bài kệ. Mỗi bài kệ có 4 câu.
Nói đến nhẫn nhục vì có xâm hại và tổn thương, có bất như ý... Những thứ khiến người đời dễ khởi tâm sân hận. Bồ-tát, do thói quen huân tập nhiều đời cũng khó tránh khỏi. Vì thế cần pháp đối trị, là dùng nhẫn nhục đối trị sân hận. Vì sao phải đối trị sân hận? Vì sân hận đưa đến nhiều tác hại. Do đó mở đầu phần này là các bài kệ nói về sự tai hại của sân hận.
- Một giây sân hận có thể phá hủy các thiện hạnh đã tích lũy ngàn năm.
- Ôm giữ hận thù khiến hiện tại không thể thảnh thơi, an vui. An vui được là do không sân.
- Một gia chủ sân hận, có thể bị giết bởi những người mình từng cưu mang, còn thân quyến bạn bè thì xa lánh. Dù bố thí tràn trề mà sân hận thì vẫn cô độc.
- Muốn mà không được, không muốn lại gặp phải, là nhân đưa đến sân giận. Nhưng sân giận lại là nhân của “Ái biệt ly, chán ghét gặp hoài”. Nếu không phá bỏ sân giận thì bản thân sẽ bị hủy diệt.
Kệ 8 và 9 chỉ cách phá bỏ sân giận. Trừ sân giận thì quả của sân giận mới không xuất hiện. Đó là tập bình tâm đối với các việc bất như ý “Gặp gì cũng cứ như không”5. Muốn “như không” thì phải có tuệ quán phụ trợ, thấy rõ sự bất lợi của sân giận cũng như mặt tích cực trong việc tu hành của những thứ khiến mình sân giận (oan gia, gặp kẻ nói lời vu khống, gặp những cảnh bất như ý v.v...). Nên các bài kệ kế giải thích lý do không nên sân giận.
Kệ 10 đến kệ 68 nêu lý do vì sao không nên sân giận.
- Với những nghịch cảnh mà bản thân không thể thay đổi được, như khi thời tiết không như ý hay bệnh tật xuất hiện, thì có sân giận cũng không thay đổi được, sao phải sân giận khi sân giận chỉ khiến mình khổ não, lại còn tổn hại công đức. Với những nghịch cảnh có thể cứu vãn thì càng không nên sân giận, vì đã có biện pháp cứu vãn, không cần phải sân giận.
- Nhờ có khổ, có bất như ý, mới có tâm xuất ly, không thì chìm đắm mãi trong các cõi.
- Ngoại đạo còn chịu được các khổ hạnh. Người tu Phật đâu thể không nhẫn được với chút khổ não để giải thoát.
- Người dũng mãnh trí tuệ không chùn bước trước nghịch cảnh, vì thế cần nhẫn, không để các nghịch cảnh làm thối tâm.
- Mọi thứ trở nên dễ dàng nhờ huân thành thói quen. Cho nên, chỉ cần nhẫn quen với các khổ nhỏ, sẽ nhẫn dần được với các khổ lớn.
- Sân giận hay khiến mình nghĩ quấy và làm quấy, không chỉ tác hại cho người mà còn hủy hoại bản thân mình, vì thế không nên sân giận.
- Đau khổ giúp hết kiêu căng, chán sinh tử và biết xót thương chúng hữu tình.
- Lý Nhân duyên - Nhân quả chi phối thế gian này, nên không có gì ra ngoài duyên sinh. Không có nhân, đủ duyên không thể có quả. Không phải tự dưng xuất hiện oan gia và các bất như ý. Đều do mình gây tạo nghiệp bất thiện từ trước. Hiểu được thì không oán hờn, sân giận. Nếu mình không phải là duyên trong đó thì ngoại cảnh không thể tác động được mình. Nên khi quả đến, cần tỉnh giác chấp nhận.
- Mọi tội ác đều có quả khi đủ duyên, không cần mình phải sân giận rồi tạo ác trở lại. Chỉ thêm nhiều oan nghiệt, vay trả trả vay không dứt. Nhẫn được, vừa tránh tác hại trong hiện tại, vừa trả được báo nghiệp trong quá khứ, lại tăng trưởng được công đức.
- Do vô minh, người mới làm những việc bức hại ta, nếu sân giận họ thì không khác sân giận ngọn lửa vì nó đốt cháy. Đó là việc vô lý.
- Không có nghịch cảnh thì không có nhẫn lực, không có công đức. Vì thế oan gia có khả năng giúp ta tăng trưởng công đức, nên cám ơn hơn là sân giận.
- Đối với lời vu khống có thể khiến người khác ghét mình, thì phải biết việc ghét hay thương đó không thể làm thay đổi được báo nghiệp của mình, nếu bản thân mình không tạo bất thiện nghiệp.
- Nếu người khiến ta bị mất lợi, thì phải biết lợi đó như mây nổi chiêm bao, chết không mang theo được, nhưng ác nghiệp hay thiện nghiệp thì theo mình đến cùng. Nhẫn được thì thành tựu thiện nghiệp. Vì lợi mà nổi sân thì “Phước bèn mất hết, còn tăng tội nhiều”.
- Nếu thấy người phá hại Tam bảo cũng không nên khởi tâm sân giận. Phải biết không có
gì suy hao. Mọi thứ đều có nhân duyên của nó. Không nên sân hận.
Kệ 69 nói đến việc tiến tu. “Khi đà thấy biết việc rồi/ Hãy nên nỗ lực tiến tu hạnh lành/ Đãi nhau bằng tấm chân tình/ Từ tâm giải thoát, chớ hành khổ nhau”.
Kệ 70 đến kệ 79 dạy phá trừ sân giận tiếp.
- Với những ai tán thán người mình không ưa, thay vì nổi tâm sân hận, hãy khởi tâm vui theo. Đây là cách được chư Phật tán thán, khiến tâm tránh phiền não và thu nhiếp được người.
- Với những khổ não đang gặp, thay vì bực bội sân hận, cần quán những khổ não hiện tại đang gặp so với khổ não ở địa ngục còn tăng gấp bội. Nếu không nhẫn được với cái khổ hiện tại thì khó tránh được cái khổ ở địa ngục. Chi bằng chịu nhẫn để được công đức mà còn thoát khổ lớn.
Kệ 80 đến kệ 89 luận để thấy vì sao Bồ-tát không nên khởi tâm sân hận với chúng sinh, cũng chẳng nên có tâm trả thù.
- Vì phát tâm Bồ-đề vô thượng là muốn chăm lo và ban vui tới mọi người, muốn mọi người được thọ phước lớn lao. Nếu thấy người có thể tự lực bình an, có được chút lợi danh hay sự thanh thản mà đem tâm ghét hiềm là đi ngược với những gì mà mình đã phát tâm.
- Với niềm vui nhỏ của chúng sinh mà Bồ-tát không tùy hỷ được thì khó có thể khiến mình và người giác ngộ toàn vui. Dù người có gặp khổ đau thì đó cũng không phải là chỗ để mình vui mừng. Vì vui mừng khi thấy người khác khổ đau là cái nhân của địa ngục.
Đó là lý do vì sao Bồ-tát không nên khởi tâm sân giận chúng sinh, dù chúng sinh đối xử với mình thế nào.
Kệ 90 đến kệ 98 nói lên thực chất của sự ngợi khen. Lời ca tụng chỉ là một loại âm thanh vô thường, nó không mang đến trường thọ, kiện khang, bình an hay hết bệnh đa mang cho mình. Tuy vậy, lại dễ khiến tâm mình tán loạn, phá các thiện pháp, không còn sự chán lìa.
Kệ 99 đến 111 nhấn mạnh mặt tích cực của những trái nghịch. Vì lời khen dễ khiến mình sinh cao mạn, phá hoại các thiện pháp, nên khi gặp kẻ trái nghịch, phải biết “Chính là người đã cứu ta/ Khỏi sa địa ngục đường tà”, là người giúp ta thoát khỏi lợi danh, là người giúp ta phát sinh nhẫn lực. Vì nếu không có tổn hại thì không thể có nhẫn lực. Cho nên phải coi kẻ trái nghịch phá hoại là ân nhân của mình. Đã là ân nhân thì không có tâm sân giận, chỉ có tâm cung dưỡng.
Kệ 112 đến kệ 118, nói về công đức giữa chúng sinh và Phật. “Chúng sinh và Phật cùng ngang phước điền”. Không phải ngang ở mặt trí đức cao siêu, mà ngang ở mặt làm lợi ích cho Bồ-tát. “Kể bao đối tượng ta nương/ Để tu chứng đạo, chúng sinh Phật đồng”. Bồ-tát phải nương vào lực hộ trì của chư Phật, nương vào giáo pháp Phật dạy mới có thể tu hành, nhưng phải nhờ chúng sinh mới có thể thực tế hóa được những gì đã đọc học đó. Công đức, trí tuệ cũng như nhẫn lực nhờ đó mà thành tựu. Vì vậy “Muốn thành Lục độ vô biên/ Hãy gieo giống phước lên trên ruộng này”. Đó là “Cúng dường tất cả chúng sinh/ Với tâm từ mẫn, vô biên phước tồn/ Vì là nhân của quý tôn/ Cũng như kính Phật Thế Tôn vô lường”.
Kệ 119 đến kệ 132 nói việc báo ân Phật không gì bằng khiến chúng sinh được an vui. Vì mọi việc làm của Phật đều nhằm giúp chúng sinh an vui. Nếu làm tổn hại chúng sinh chính là làm tổn thương Đức Phật. Cần phải kính trọng tánh Phật mà Phật và chúng sinh đồng có. Từ đó đưa ra những lời phát nguyện, nguyện phát huy nhẫn nhục, dứt trừ sự tổn hại, làm lợi ích cho chúng sinh, cũng chính là làm lợi ích cho bản thân mình.
Kệ 133 và 134 nói về quả báo của việc không sân giận. Là được vui sướng, sống lâu, không bệnh, dung nhan tuyệt trần, đức trí vang xa, được hưởng vinh quang, đời sau thoát khổ, thọ hưởng hạnh phúc như vua trời. Nếu làm chúng sinh được an vui thì hiện tại bản thân được an vui. Tương lai thành Chánh đẳng giác.
(Còn tiếp, mời bạn đọc đón theo dõi trên Nguyệt san Giác Ngộ số 283 - tháng 10-2019)
(1) Theo bản dịch của Ni sư Trí Hải.
(2) Bản văn xuôi ghi là “Phát Bồ-đề tâm (Bồ-đề tâm nguyện)”. Bản của cư sĩ Nguyên Hiển cũng ghi “Phát Bồ-đề tâm”. Nghĩa được diễn giải trong phần này, đại ý thấy phù hợp với mấy từ “Bồ-đề tâm nguyện”, là những nguyện phát sinh từ việc phát tâm Bồ-đề. Đó là điều kiện để trưởng dưỡng giữ gìn tâm Bồ-đề. Nghĩa là, cũng đều là phát tâm Bồ-đề nhưng không chỉ dừng ở dạng chung chung như “Trên cầu Phật đạo. Dưới hóa độ chúng sinh” mà ở dạng chi tiết hơn, đã lập thành nguyện hẳn hoi, là xả thân vì người qua những hình thức chi tiết cụ thể, rõ ràng.
(3) Bản văn xuôi ghi “Bồ-đề tâm hạnh”.
(4) Bản văn xuôi ghi “Chánh niệm tỉnh giác”, đồng với bản dịch của cư sĩ Nguyên Hiển.
(5) Bản văn xuôi là “chẳng để khuấy động niềm hỷ lạc trong ta.