Bàn thêm về sự nghiệp của Trần Nhân Tông

Toàn cảnh đền thờ Trần Nhân Tông
Toàn cảnh đền thờ Trần Nhân Tông
uyên suốt lịch sử dân tộc, đã có biết bao nhiêu nhân vật với tư cách là người đứng đầu đất nước đã có những kỳ tích lẫm liệt đối với đất nước. Có nhân vật nổi bật lên trong sự nghiệp giữ nước, có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp dựng nước, lại có nhân vật nổi lên trong sự nghiệp mở nước, hoặc có một số nhân vật có cả hai hoặc ba lãnh vực đó.

Trần Nhân Tông là một vị hoàng đế mà sự nghiệp nổi hẳn trên cả ba mặt : Giữ nước, dựng nước và mở nước. Trên cả ba lãnh vực này, Trần Nhân Tông đã có những đóng góp hết sức đặc biệt. Tuy nhiên, cho đến nay trong chính sử cũng như trong hiện thực xã hội, sự nghiệp của Trần Nhân Tông và một số vấn đề liên quan đến thời đại Trần Nhân Tông vẫn chưa được nhìn nhận một cách thỏa đáng.

Sự nghiệp giữ nước của Trần Nhân Tông

Thời Trần Nhân Tông ở ngôi hoàng đế, dân tộc ta phải đương đầu với một kẻ thù hung hãn nhất của thời đại: Giặc Mông - Nguyên. Trong vòng nửa thế kỷ, bộ tộc Mông Thát đã mở rộng chiến tranh xâm lược và làm chủ nhiều vùng đất đai rộng lớn ở hai lục địa Á - Âu, lập nên một đế chế kéo dài từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình Dương. Thế nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt, đội quân "bách chiến bách thắng" đó đều bị đánh bại, trong đó có hai lần diễn ra dưới thời Trần Nhân Tông. Vậy vai trò của Trần Nhân Tông, với tư cách là người đứng đầu đất nước trong hai cuộc kháng chiến 1285 và 1288 được thể hiện như thế nào?

Phải chăng vai trò của Trần Nhân Tông đã bị "che khuất" sau Thượng hoàng Thánh Tông và tài thao lược của Hưng Đạo vương? Việc Thượng hoàng Trần Thái Tông và Hưng Đạo vương tham gia chỉ đạo chiến tranh và đã có những quyết sách tối ưu đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi là điều không thể phủ nhận, nhưng phải khẳng định rằng thực quyền lãnh đạo hai cuộc chiến tranh vẫn thuộc về Trần Nhân Tông. Xin được nêu một số sử liệu để minh họa cho lập luận này.

Để chuẩn bị cho chiến tranh, Trần Nhân Tông ý thức rất sâu sắc về "thế trận lòng dân" hạt nhân để làm nên chiến thắng. Trần Nhân Tông đã tổ chức hội nghị Bình Than (1282), gồm tướng sĩ để bàn kế giữ nước. Đặc biệt, đầu năm 1285, Trần Nhân Tông đã tổ chức hội nghị Diên Hồng, gồm các bô lão đại diện cho thần dân khắp cả nước, để rồi từ điện Diên Hồng vang lên tinh thần quyết chiến. Rõ ràng là mỗi khi sức mạnh nhân dân vào trận thì không một thế lực nào có thể vượt thắng được. Với cách hiểu như vậy, chúng ta mới thấy được tầm cao của Trần Nhân Tông trong việc huy động sức dân vào hai cuộc chiến tranh giữ nước 1285 và 1288.

Vai trò tối cao của Trần Nhân Tông còn thể hiện trong chính sách dùng người. Việc Trần Nhân Tông giao cho Hưng Đạo vương chỉ huy trực tiếp toàn quân, hoặc trọng dụng các tướng lĩnh tài năng dù họ có lỗi lầm trong quá khứ như Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được giao làm Phó tướng, phụ trách toàn bộ thủy quân; hoặc như Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật tuổi đời còn rất trẻ vẫn được cử trông coi cả một vùng Tây Bắc rộng lớn,... Nhà sử học đời Lê là Ngô Sĩ Liên nhận xét: "Tôi từng thấy các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm Điện Súy (tức Phạm Ngũ Lão - TG) thì học vấn biểu hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyện về nghề võ. Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn công là chiếm được, người xưa cũng không một ai vượt nổi các ông ... Đủ biết, nhà Trần dùng người, vốn căn cứ vào tài năng của họ để trao trách nhiệm”(1). Còn Lê Quý Đôn tỏ ra hết sức thán phục: "Nhà Trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà không bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt qua thói thường, làm rạng rỡ trong sử sách, trên không thẹn hổ với trời, dưới không thẹn với đất. Ôi như thế, người đời sau còn có thể theo kịp thế nào được”(2).

Chúng ta cũng thấy những ứng xử ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn của Trần Nhân Tông với triều Nguyên trước, trong và sau chiến tranh. Trong cuộc chiến tranh năm 1285, khi quân Nguyên sắp vào nước ta, Trần Nhân Tông cho sứ đưa thư đến Thoát Hoan, từ chối việc cho mượn đường Đại Việt đánh Champa: "Từ nước tôi đến Champa, đường thủy đường bộ đều không tiện”(3); hoặc nhắc tới Tờ chiếu năm 1261 của Hốt Tất Liệt: "Trước đây, được vâng thánh chiếu nói rằng: ‘Sắc riêng cho quân ta (quân Nguyên - TG) không vào bờ cõi nhà ngươi’, thế mà nay thấy ở Ung châu doanh trạm cầu đường nối nhau san sát...”(4). Phương sách ngoại giao của Trần Nhân Tông dầu không cản được chính sách xâm lược của triều Nguyên, nhưng nó có tác dụng giúp triều Trần có thêm thời gian chuẩn bị để ứng phó với chiến tranh mà biết trước sẽ diễn ra; mặt khác, nó góp phần quán triệt tư tưởng trong nhân dân về bản chất hiếu chiến của kẻ thù để mà dốc lòng cứu nước. Vì vậy, điều không phải ngẫu nhiên khi quân lính, mỗi người đều thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát” trước lúc ra trận.

Khi chiến tranh diễn ra, Trần Nhân Tông có mặt hầu như khắp mọi mặt trận để cùng với tướng lãnh có những quyết sách tối ưu trước những tình thế hiểm nghèo, nổi bật nhất là những quyết định lui quân hoặc phản công chiến lược. Trong cuộc kháng chiến năm 1285, khi nghe tin Nội Bàng thất thủ, quân ta phải rút lui trong thế bất lợi, Trần Nhân Tông bỏ ăn sáng, đi thuyền suốt ngày ra Hải Đông để gặp Hưng Đạo Vương để bàn cách giải quyết. Việc quyết định lui quân ở Hải Đông sau khi Nội Bàng thất thủ, rời bỏ Thăng Long, thực hiện "vườn không nhà trống", ... nói lên sự sáng suốt của Trần Nhân Tông trong việc nắm bắt tình hình và đánh giá tương quan lực lượng; trong trận thủy chiến (14-2-1285) ở Bình Than, các trận Trường Yên, Hàm Tử tiêu diệt đạo quân của Toa Đô, đặc biệt là trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng (1288) chôn vùi ý chí xâm lược của Hốt Tất Liệt,... Trần Nhân Tông, người vừa hoạch định kế sách, vừa đốc binh ngoài mặt trận.

Sau cuộc kháng chiến năm 1285 thắng lợi, để nắm được tiềm lực của quốc gia, ngỏ hầu đối phó với nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lược mới của triều Nguyên, Trần Nhân Tông cho thực hiện ngay việc điều tra dân số. Đại Việt Sử Ký Toàn thư cho biết: "Mùa đông, tháng Mười (1285), xuống chiếu định hộ khẩu trong nước. Triều thần can là dân vừa lao khổ, định hộ khẩu thực không phải là việc cần kíp. Vua nói: ‘Chỉ có thể định hộ khẩu vào lúc này, chẳng nên qua đó mà xem xét (tình trạng) hao hụt, điêu tàn của dân ta hay sao?’. Quần thần đều khâm phục”(5).

Sau ngày khải hoàn, việc Trần Nhân Tông không phong Đỗ Hành tước cao vì khi bắt được Ô Mã Nhi đã dâng lên Thượng hoàng (mà không dâng lên Trần Nhân Tông); hoặc không thăng trật cho Hưng Trí vương, vì khi đã có chiếu của Trần Nhân Tông cho người Nguyên về nước, không được cản trở, mà Hưng Trí vương cứ còn đón đánh; trong lúc đó Trần Nhân Tông cho "Man trưởng Lạng Giang Lương Uất làm trại chủ Quy Hóa. Hà Tất Năng làm Quan phục hầu vì đã chỉ huy người Man đánh giặc”(6), ...

Nhìn lại những trang sử chống ngoại xâm của dân tộc, nhân dân ta đã đương đầu với biết bao kẻ thù hung bạo và đã lập nên biết bao chiến công lừng lẫy, song điều cần khẳng định là cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông - Nguyên thắng lợi ở thế kỷ XIII là một trong hai chiến công vĩ đại của dân tộc ta mang tầm thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc. "Lịch sử thế giới đánh giá chiến thắng này (chiến thắng chống đế quốc Mông - Nguyên - TG) là thần kỳ, độc nhất vô nhị” (7). Tổng Bí thư thư Lê Duẩn khẳng định: "Dân tộc ta hơn các dân tộc khác ở chỗ ngay từ buổi đầu giữ nước dân tộc ta có bà Trưng, Bà Triệu; ở chỗ đã hai lần đánh bại những tên sen đầm quốc tế: Mông - Nguyên và Hoa Kỳ”(8).

Dĩ nhiên, "chiến công hiển hách này thuộc về cả dân tộc, trong đó nổi bật lên những danh tướng như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão... Song vai trò của Trần Nhân Tông với tư cách là người Tổng chỉ huy tối cao phải ở vị trí hàng đầu, bởi lẽ nếu ‘vua không hiền’ thì dù tôi giỏi mấy cũng không thể nào phát huy được sở trường của mình trong việc điều quân ngoài mặt trận. Hơn thế nữa, chính Trần Nhân Tông cũng tự mình thống lĩnh binh mã, xông pha trận mạc”(9). Điều đó càng cho chúng ta thấy tầm cao của Trần Nhân Tông trong sự nghiệp giữ nước.

Sự nghiệp dựng nước của Trần Nhân Tông

Sau cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của Trần Nhân Tông, công cuộc tái thiết đất nước diễn ra trên nhiều lãnh vực. Do giới hạn của bài viết, đoản khúc này chỉ đề cập về sự nghiệp văn hóa của Trần Nhân Tông.

Một la, Trần Nhân Tông tái dựng về một quá khứ huy hoàng của dân tộc bằng việc phong thần cho những người có công với nước, như Phù Đổng Thiên Vương, Triệu Quang Phục, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt,... Thực ra, việc phong thần cho những anh hùng, liệt nữ và những người có công với dân tộc đã được thực hiện từ thời Lý Thái Tổ, song chỉ đến thời Trần Nhân Tông, việc làm này mới được tiến hành một cách đầy đủ và có hệ thống hơn.

Căn cứ vào những ghi chép của Lý Tế Xuyên trong Việt điện u linh tập, trong những năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) và Trùng Hưng thứ 4 (1288) đã có tới 27 vị được phong thần. Các vị thần Việt Nam đến thời Trần Nhân Tông đã lên tới con số không phải ít. Việc làm này của Trần Nhân Tông có một ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong việc tạo dựng truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam . Lần đầu tiên, một thần điện Việt Nam được hình thành với những con người cụ thể, sống bằng xương bằng thịt trong quá khứ, có sự tích, có hành trạng, chứ không chỉ gồm những vị thần, vị thánh từ nước ngoài đưa vào, hay được tưởng tượng ra ở trong nước. Giáo sư, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát khẳng định: "Trần Nhân Tông gầy dựng một quá khứ anh hùng và thần thánh cho dân tộc ta, dùng những tấm gương anh hùng liệt nữ và thần thánh đó để giáo dục cho nhân dân ta sống xứng đáng với tổ tiên, đất nước mình. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước và anh hùng Việt Nam đã được phát huy cao độ vào thời đại Trần Nhân Tông... Không có quá khứ đó, việc phát huy không thể dễ dàng. Đây có thể là một đóng góp to lớn về đời sống tư tưởng của Trần Nhân Tông với dân tộc ta”(10).

Hai là, Trần Nhân Tông là một trong rất ít người đi tiên phong trong việc sử dụng quốc ngữ (chữ Nôm) kể cả trong công việc triều chính, trong đời sống xã hội và trong sáng tác văn học.

Ngày 27 tháng Ba năm Mậu Tý (1288), chỉ ít ngày sau khi trở về Thăng Long, Trần Nhân Tông ban chiếu, tuyên bố lệnh đại xá cho thiên hạ, Trần Nhân Tông buộc các quan phải đọc chiếu bằng hai thứ tiếng: Hán và Quốc ngữ. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: "Vua dụ ty Hành khiển giao hảo với viện Hàn lâm. Lệ cũ, mỗi khi tuyên đọc lời vua, thì viện Hàn lâm lĩnh đưa bản thảo tờ chiếu cho Hành khiển để giảng tập trước. Đến khi tuyên đọc, thì giảng cả âm nghĩa cho dân thường dễ hiểu”(11). Với Trần Nhân Tông, ý nghĩa của việc làm này là cốt để cho quần thần và dân chúng nghe được nội dung chiếu chỉ, bởi trong số họ đa số không biết chữ Hán hoặc có biết cũng chưa đạt đến trình độ thông hiểu hết; mặt khác còn là ở chỗ Việt hóa ngôn ngữ trong dân gian lẫn chốn cung đình.

Trong đời sống xã hội, những lúc xa giá, tiếp xúc với chốn thôn dã, Trần Nhân Tông sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp, vừa thể hiện sự hòa quyện quân dân, vừa có ý nghĩa đề cao tiếng mẹ đẻ, cổ xúy nhân dân chăm lo gìn giữ tiếng Việt. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: "Vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường, hễ gặp gia đồng của vương hầu thì tất gọi chúng mà hỏi: ‘Chủ mày đâu?’, rồi răn các vệ sĩ không được thét đuổi. Đến khi về cung, bảo tả hữu rằng: ‘Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lắm hoạn nạn thì chỉ có bọn chúng có mặt’”(12).

Trong văn học, Trần Nhân Tông là một trong số rất ít người đi tiên phong trong việc sử dụng chữ Nôm. Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là hai tác phẩm được viết bằng chữ Nôm của Trần Nhân Tông. "Hai tác phẩm này thuộc loại văn học luận đề. Chúng là những bản văn chính luận tập trung trình bày một số vấn đề tư tưởng và lý luận. Chúng đã dùng chữ Nôm như một ngôn ngữ để biểu hiện những tư tưởng tương đối khó một cách khéo léo và dễ hiểu. Từ đó chữ Nôm đã trở thành một ngôn ngữ đủ khả năng chuyển tải bất cứ nội dung tư tưởng nào vào trong một tác phẩm. Nhờ thế, các tác phẩm ấy không những đã lôi cuốn được sự chú ý của người đương thời, mà còn có sức hấp dẫn đối với hậu thế. Đây chính là một trong những cống hiến lớn, mà hai tác phẩm này đã mang lại cho văn học Việt Nam (13).

Cư trần lạc đạo phu Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca(14) của Trần Nhân Tông, được xem như là những tác phẩm đầu tiên, hoàn chỉnh trong việc sử dụng chữ Nôm. Những tác phẩm này thực sự đã tác động sâu rộng đến truyền thống dân tộc, chứ không chỉ đối với Phật giáo. Với thời gian đi qua hàng mấy thế kỷ cùng với sự phá hoại của kẻ thù, bao nhiêu tác phẩm ra đời cùng thời, bây giờ đã thất truyền hoặc lắm chỉ biết đến tên, chứ nội dung là gì thì không rõ, song Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông vẫn được giữ gìn và trao truyền qua bao thế hệ cho đến tận ngày nay và chắc chắn mãi mãi sẽ được giữ gìn và phát huy giá trị. Điều này giải thích tại sao "trong ánh hào quang của nền văn học dân tộc, sáng ngời những tác phẩm của Trần Nhân Tông”(15).

Một vị hoàng đế, một vị thiền sư, rất giỏi chữ Hán, mà lại buộc quần thần đọc chiếu với hai thứ tiếng, giao tiếp với dân bằng quốc ngữ, đặc biệt là sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm, trong đó diễn đạt những tư tưởng triết lý cao siêu của Phật giáo, như Cư trần lạc đạo phú. Đây không phải ngẫu nhiên mà là một tất yếu trong tính thống nhất giữa tư tưởng và hành động của Trần Nhân Tông trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc. Từ kinh nghiệm giữ nước trong những thời kỳ trước đó; đồng thời là người lãnh đạo tối cao dân tộc trong một giai đoạn lịch sử đầy cam go và ác liệt trước một đội quân hung bạo như quân đội Mông - Nguyên, Trần Nhân Tông ý thức sâu sắc rằng việc bảo vệ độc lập dân tộc không tách rời với việc xây dựng và phát huy chiều sâu của nền văn hóa dân tộc. Rõ ràng, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác "đối với Trần Nhân Tông không chỉ dừng lại ở chỗ ‘nghệ thuật vị nghệ thuật’ mà còn là và chính là ‘nghệ thuật vị nhân sinh’, tức là phải đáp ứng được yêu cầu phát huy tính độc lập dân tộc ngay cả trong văn tự”(16).

Ba là, Trần Nhân Tông đã sáng lập ra phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đây được xem như là mặt nổi bật nhất trong sự nghiệp văn hóa của Trần Nhân Tông. Đầu thế kỷ XII, ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường dần dần thống nhất, trên cơ sở đó hình thành phái Thiền Trúc Lâm. Đây là thiền phái đầu tiên do một người Việt Nam sáng lập. Thiền phái Trúc Lâm đề cao sự tự ngộ, sự nỗ lực rèn luyện của hết thảy mọi người. Dù xuất gia hay tại gia, sống trong chùa hay ở ngoài đời, miễn là biết tu tập, cải tạo tâm từ ác chuyển thành thiện, từ xao động chuyển thành bình lặng, định tĩnh, biết phá trừ vô minh, tham dục thì đều đi đến con đường giác ngộ. Trong Cư trần lạc đạo phu, Trần Nhân Tông viết:

"Dứt trừ nhân ngã, thì ra thực tướng kim cương

 Dừng hết tham sân, mới làu lòng màu viên giác.

 ......

 Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc

 Sơm lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công” .

Điều quan trọng nhất là Thiền phái Trúc Lâm đã thể hiện tinh thần nhập thế hết sức mãnh liệt. Bản thân Trần Nhân Tông, khi xuất gia vẫn quan tâm đến vận mệnh đất nước. Trần Nhân Tông đã chọn Yên Tử làm trung tâm của Giáo hội Trúc Lâm. Tại đây, trên đỉnh núi Yên Tử, cùng với việc tu chứng, Trần Nhân Tông có thể quan sát được sự động tĩnh của các cánh quân xâm lược từ phương Bắc xuống. Mặt khác, Trần Nhân Tông đi khắp các chốn thôn dã, khuyên dân bỏ những hủ tục, mê tín và thực hành giáo lý Thập thiện. Theo Trần Nhân Tông, "sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu”. Ngay cả đến thời điểm trước lúc viên tịch, Trần Nhân Tông vẫn căn dặn các đệ tử rằng: "Các người hãy xuống núi lo tu hành, đừng coi sinh tử là việc nhàn”. Tiêu biểu hơn cả là việc Trần Nhân Tông đã đến tận Champa, tạo được mối quan hệ thân thiện láng giềng, đặt cơ sở cho việc Ô, Lý trở thành một bộ phận của Đại Việt sau đó.

Cuộc đời của Trần Nhân Tông thể hiện một cách sinh động về tinh thần nhập thế mãnh liệt của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Khi làm vua thì thu phục được nhân tâm, "dĩ nhân tâm, vi kỷ tâm” để đạt cho được mục đích tối hậu: "Non sông muôn thuở vững âu vàng”. Khi trở thành thiền sư, Trần Nhân Tông, không chỉ chuyên lo việc "kinh kệ”. Thực ra việc “kinh kệ” đối với Trần Nhân Tông cốt để trí tuệ bừng sáng nhằm phục vụ nhân quần với một hiệu quả cao nhất.

Trần Nhân Tông với sự nghiệp mở nước

Nói đến mở nước là nói đến "Công cuộc Nam tiến” của dân tộc ta. Khi nghiên cứu "Công cuộc Nam tiến” của dân tộc ta, Trần Nhân Tông phải được đặt ở vị trí cao nhất.

Đối với Đại Việt, việc yên ổn "vùng phên dậu” phía Nam có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giữ vững nền độc lập dân tộc trước chính sách xâm lăng có tính thường trực của phong kiến phương Bắc. Vấn đề này đã được lịch sử đặt ra ngay từ các triều đại độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Năm 979, khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám hại, vua Champa nghe theo lời xúi giục của Ngô Nhật Khánh (phò mã của nhà Đinh) đã cho thủy quân, định xâm chiếm phía Nam Đại Cồ Việt. Song dường như "thiên thời” không chiều ý, hạm thuyền Champa bị bão tố đánh đắm, vua Champa buộc phải chạy về nước.

Năm 980, sau khi lên ngôi, Lê Đại Hành đã cử Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Champa đặt quan hệ hòa hiếu, nhằm yên mặt Nam để lo việc chống Tống ở phía Bắc. Vua Champa ỷ vào thế mạnh, đã bắt giữ các sứ thần của ta. Năm 982, sau khi đánh bại quân Tống, Lê Đại Hành quyết định đem quân chinh phạt Champa, tiến thẳng đến kinh đô, phá thành trì rồi rút quân về. Quan hệ Việt - Champa tạm yên.

(Còn tiếp)

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 389/GP-BTTTT ngày 02-8-2022
Tổng Biên tập: Thượng tọa Thích Tâm Hải
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2025 - Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.