Ảnh hưởng Phật giáo trong đường lối trị quốc và ngoại giao của hoàng đế Asoka

Ảnh hưởng Phật giáo trong đường lối trị quốc và ngoại giao của hoàng đế Asoka
"Asoka chỉ sinh ra đời một lần, những việc ông làm cũng chỉ giới hạn trong một phạm vi và thời gian nhất định, trong khi cuộc đời thì diễn tiến không ngừng. Tuy vậy ông đã để lại cho cuộc đời một bài học lớn, bài học của lòng nhiệt thành, sự tận tụy, tình thương và lòng bao dung, bài học của lòng tin ở chính mình và tin người khác trong tất cả việc làm và trong mọi quan hệ.

Ông đã dùng tình thương xóa hận thù, dùng thiện nhân thắng hung ác, lấy thí xả thắng xan tham, dùng sự thật thắng gian tà. Asoka đã nêu một tấm gương lớn cho cuộc đời. Dù diễn tiến của cuộc đời không giống như ông mong muốn nhưng cách thái và di ngôn mà ông để lại vẫn luôn luôn là những chuẩn mực và kim chỉ nam cho những nhà lãnh đạo trên thế giới và cho tất cả những ai yêu mến đạo đức, trân trọng nhân ái, khao khát hòa bình và thương yêu đồng loại..."

Asoka chính thức nắm giữ  vương quyền Maurya từ năm  270 đến năm 232 trước Tây lịch. Trong khoảng thời gian 38 năm ấy, ông đã đưa đất nước Ấn Độ đạt đến chỗ phồn vinh, thái bình thịnh trị nhờ vào tài năng và đường lối lãnh đạo sáng suốt của ông. Ngoài ra, Asoka là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ chủ trương đường lối hòa bình triệt để và đề ra các chính sách bang giao hòa hiếu với các quốc gia láng giềng trong khu vực. Tác phẩm Divyàvadàna ghi nhận sự kiện rằng Asoka trị vì một vương quốc rộng lớn mà không có đàn áp, không bắt ép người vô tội, không dùng vũ lực mà dùng đức trị (1). Thông tin bi ký IV cho hay nhờ các huấn chỉ tôn giáo do Đức Thánh thượng Priyadarsì ban bố, dân chúng Ấn Độ đã tiến bộ đáng kể về phương diện đạo đức. Họ từ bỏ sát sinh, hiếu kính cha mẹ, tôn trọng các bậc trưởng thượng, cung kính cúng dường các Sa môn và Bà la môn. Tiểu bi ký I Asoka thông báo với chúng ta, ông từng sống với Tăng già hơn một năm, thông tin này một mặt nói rõ tấm lòng ngưỡng mộ Phật pháp của ông nhưng mặt khác gián tiếp phản ánh sự kiện rằng vương quốc Maurya thái bình thịnh trị đến độ Asoka đã có thể hoàn toàn an tâm tĩnh tu trong tu viện một thời gian khá lâu. Bia ký XIII đề cập sự kiện Asoka đã thu phục nhân tâm không những ở khắp nơi trong nước mà còn ở nước ngoài nhờ theo đuổi đường lối đức trị (Dharma-vijaya). Nhận xét về thành quả của ông, K. Haza nói rằng nhờ tài lãnh đạo sáng suốt và quản lý giỏi và với sự trợ giúp của đội ngũ quan chức triều đình các cấp, Asoka đã quản lý hết sức thành công toàn bộ đế quốc to lớn của mình và đã thu phục lòng người một cách dễ dàng (2). Cũng theo học giả này, Asoka đã giữ vững đế quốc rộng lớn của mình và thiết lập quan hệ thân thiện với các nước bang giao mà không dùng đến chiến tranh hay chính sách xâm lăng (3). W. Rahula cho rằng Asoka là vị hoàng đế lỗi lạc, có can đảm, đức tin và kiến giải đủ để áp dụng những lời dạy của Đức Phật về hòa bình, bất bạo động và yêu thương vào việc cai trị một đế quốc rộng lớn với một chính sách đúng đắn từ trong nội bộ lẫn ngoại giao. Ông công khai quay lưng lại với chiến tranh, bạo động và đón nhận thông điệp của bất bạo động và hòa bình. Bằng chứng lịch sử cho thấy không có vua láng giềng nào lợi dụng sự sùng đạo của Asoka để tấn công ông về quân sự, hay có một cuộc nổi loạn nào trong đế quốc của ông lúc ông còn sinh thời. Hòa bình ngự trị khắp nơi trên lãnh thổ, và ngay cả những vương quốc bên ngoài cũng dường như đã chấp nhận sự lãnh đạo nhân từ của ông (4).

Tổng hợp các thông tin, nhận xét và đánh giá trên về thành quả của ông, chúng ta thấy rằng Asoka đã thành công lớn trong sự nghiệp chính trị nhờ tài năng lãnh đạo và đặc biệt là đường lối trị quốc và ngoại giao sáng suốt. Tất cả chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước Maurya đều nằm gọn trong các tài liệu bi ký và trụ đá chứng minh ông ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng và tinh thần Phật học. Các bi ký và trụ đá Asoka phản ảnh sâu sắc giáo lý của Đức Phật. Vậy, Phật giáo đã đóng vai trò như thế nào trong sự nghiệp chính trị của Asoka, hay nói cách khác, Phật giáo đã có những ảnh hưởng như thế nào đối với chính sách trị quốc và ngoại giao của nhà nước Maurya.

I.Phật đạo hóa ASOKA

Sẽ là một thiếu sót lớn khi nói đến ảnh hưởng Phật giáo trong đường lối trị quốc và ngoại giao của Asoka mà bỏ quên những ảnh hưởng Phật giáo trong cuộc đời của ông. Không thể có sự kiện Phật đạo hóa đường lối Asoka nếu không có sự kiện Phật đạo hóa con người Asoka. Mọi thể chế nhà nước đều bắt nguồn từ con người và nếu nó mang sắc thái đạo đức hay tôn giáo nào đó thì có nghĩa là những người làm ra nó đã chịu ảnh hưởng bởi cơ sở đạo đức hay tôn giáo ấy. Đường lối của nhà nước Maurya mang sắc thái Phật giáo bởi trước hết Asoka là một Phật tử.

Đạo Phật không chủ trương đào tạo ra những nhà lãnh đạo đất nước mà quan tâm xây dựng những con người hoàn thiện, có khả năng làm chủ chính mình và đảm đang nhiều việc lớn, kể cả việc quốc gia đại sự. Đức Phật không chủ trương luận bàn chính trị và các vấn đề thế sự. Ngài tránh bàn đến thế sự và khuyên các môn đệ của mình không nên tham gia bàn luận thế sự bởi đấy không phải là phận sự của người xuất gia. Tuy nhiên, là một Bậc Đạo sư có trách nhiệm hướng dẫn nếp sống đạo đức và hạnh phúc của quần chúng, Ngài đã không thể hoàn toàn bỏ qua mọi diễn biến của thời thế, nhất là khi vấn đề ấy liên quan trực tiếp đến con người và hạnh phúc của con người. Ngài từng đứng trước lằn tên mũi đạn của hai bộ tộc Sàkya và Koliya đang chuẩn bị đánh nhau để nói lời hòa giải. Cũng vậy, khi Ajàtasattu phái đại thần Vassakara đến thỉnh vấn Ngài về ý định của ông muốn chinh phục xứ Vajjì, Đức Phật đã gián tiếp can ngăn công cuộc xâm lăng của vị vua này bằng cách nói đến bảy yếu tố hùng mạnh của dân tộc Vajjì (5). Luật tạng ghi nhận sự kiện rằng trong thời gian nổ ra các cuộc chiến tranh chấp biên giới, một số quân lính của vua Bimbisàra trốn khỏi quân đội đã lẩn trốn trong Tăng già. Nhà vua đệ trình sự việc lên Đức Phật và ngay lập tức Ngài ban điều lệ không chấp nhận việc xuất gia cho những ai đang ở trong thời kỳ phục vụ quốc gia (6).

Về phương diện giáo dục, Đức Phật chú ý xây dựng những mẫu người hoàn thiện tương ứng với vị trí của họ trong đời sống xã hội. Ngài chấp nhận yếu tố tích cực của văn hóa Aryan khi Ngài xây dựng nhân vật Chuyển luân Thánh vương lãnh đạo đất nước dựa trên Chánh pháp. Tuyển tập Trường Bô (Dìgha Nikàya) còn lưu giữ hai bài kinh, Cakkavattìsìhanàda và Lakkhana, trong đó Đức Phật nói về vị Chuyển luân Thánh vương (Cakkavattì) và đường lối cai trị theo Chánh pháp (Dhamma) của vị vua này. Văn học Jàtaka thuộc Phật giáo Thương tọa bộ, thuật lại câu chuyện Đức Phật nói về Thập vương pháp (Dasaràjadhamma - mười đức tính cần thiết của một minh quân). Trong bài kinh Kùtadanta – Trường Bộ, Ngài kể cho vị Bà la môn Kùtadanta câu chuyện ngụ ngôn nói về biện pháp trị nước thiết thực và hữu hiệu của vị vua tên Mahàvijita. Như vậy, tất cả những câu chuyện liên quan đến cuộc đời Đức Phật và những bản kinh của Ngài được lưu giữ trong kinh tạng mà Asoka đã có dịp đọc hay nghe qua chắc chắn đã tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc đời và sự nghiệp của ông. Chúng ta có thể nói rằng chính nhân cách vĩ đại và thánh thiện của Đức Phật cùng những lời dạy sáng suốt và nhân ái của Ngài đã thánh hóa con người Asoka.

Sự nghiệp chính trị của Asoka mà tiêu biểu là các chính sách trị quốc và ngoại giao của ông phản ánh sâu sắc tư tưởng Phật giáo và in đậm tinh thần Phật học. Tất cả các chỉ dụ và sắc lệnh do ông ban bố đều không ngoài mục đích dẫn dắt nếp sống đạo đức tôn giáo của quần chúng và thiết lập tình huynh đệ bằng hữu với các quốc gia láng giềng. Asoka là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ nhận rõ vai trò to lớn và lý tưởng cao cả của Chuyển luân Thánh vương (Cakkavattì) được nói đến trong kinh điển Phật giáo và nỗ lực theo đuổi lý tưởng ấy. Ông thực sự là một vị vua Chánh pháp, dùng Chánh pháp trị nước, chinh phục bốn phương bằng đạo đức nhân ái, mang lại thái bình cho đất nước, trị vì một quốc gia rộng lớn mà không dùng đến binh đao. Ông đề cao đạo đức nhân ái, từ bỏ chiến tranh xâm lăng, chủ trương hòa bình hữu nghị. Như vậy, về vai trò và đường lối trị quốc, Phật giáo đã mở đường cho Asoka trở thành một vị vua Chánh pháp. Đọc lại các bản kinh mà Đức Phật nói về Chuyển luân Thánh vương như kinh Cakkavattìsì-hanàda và kinh Lakkhana rồi so sánh cuộc đời và sự nghiệp của Asoka, chúng ta không khỏi ngạc nhiên nhận ra rằng Asoka đích thực là "bản sao" của kinh điển Phật giáo. Phật giáo đã thánh hóa con người bằng da bằng thịt của Asoka để rồi chính con người ấy sẽ dần dần thánh hóa cuộc đời. Sử gia Will Durant nói: Các sắc lệnh của Asoka cho thấy ông đã hoàn toàn tin lời dạy của đạo Phật và rán áp dụng nó vào việc trị quốc, nghĩa là vào lĩnh vực khó đem nó ra thực hành nhất (7).

Về con người cá nhân, Asoka rõ ràng chịu ảnh hưởng tư tưởng Thập vương pháp (Dasarà-jadhamma) được chép trong tuyển tập Jàtaka. Thập vương pháp hay mười đức tính của một vị vua gồm: bố thí (dàna), giới hạnh (sìla), biến xả (pariccàga), chân trực (ajjava), khổ hạnh (tapa), nhu hòa (maddava), không sân hận (akkodha), bất hại (ahimsà), nhẫn nhục (khanti), không đối lập hay thuận theo ý chí của toàn dân (avirodha). Ông thực hiện đầy đủ hạnh bố thí (dàna) (8), sống một cuộc đời đạo đức thanh cao và tuân thủ các giới hạnh (sìla) (9). Ông thực hành hạnh biến xả (pariccàga), từ bỏ các thú vui và hạnh phúc cá nhân để tập trung vào công tác phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân (10). Asoka biểu lộ thái độ chân trực (ajjava), không thiên vị người thân kẻ sơ, xử lý công việc rất nghiêm minh. Theo truyền thuyết Divyàvadàna, Asoka đã tống giam em trai mình là Mahendra vào ngục tối khi vị công tử này cậy quyền thế làm những việc xằng bậy khiến công chúng oán hận (11). Ông công khai bày tỏ sai lầm của mình về việc xâm lăng Kalinga (12) với quần chúng nhân dân(13). Về đức tính khổ hạnh (tapa), Asoka thực hành nếp sống giản dị, giảm thiểu tối đa chế độ ăn thịt (14), từ bỏ các cuộc vui chơi săn bắn và nhiều thú vui khác của hoàng gia (15). Ông thậm chí đã từng sống nếp sống phạm hạnh kham khổ của Tăng sĩ trong thời gian hơn một năm (16). Ông sống nhu hòa (maddava) với mọi người và đề cao đức tính khiêm tốn nhu hòa (17). Ông không có tâm thù hận hay ác độc (akkodha), ngược lại ông luôn tỏ rõ từ tâm đối với tất cả mọi người. Bi ký XIII ghi lời Asoka bảo rằng ông thậm chí sẵn sàng bao dung và tha thứ cho những người mắc phải sai lầm. Cuộc đời và sự nghiệp của ông phản ánh sâu sắc tinh thần bất hại (ahimsà). Asoka không những không sát sinh, làm hại, ông còn khuyên răn mọi người không được sát sinh và làm hại. Đặc biệt, động thái bất bạo động và hòa bình của ông là tấm gương sáng về đức tính bất hại. Ông có đức tin và tính kham nhẫn (khanti) lạ thường. Truyền thống Tích Lan lưu truyền câu chuyện rằng Asoka rất sùng tín cây bồ đề đến độ hoàng hậu Tíshyarakshita trở nên ghen tị muốn triệt hạ cây này vì thường xuyên thấy Asoka lễ bái dưới gốc cây. Trong ký sự của mình, Huyền Trang có thuật lại câu chuyện này và nói thêm rằng Asoka đã lặng lẽ cho xây một tường đá bao bọc chung quanh để bảo vệ cây bồ đề(18). Theo truyền thuyết Asokàvadàna, lúc về già Asoka bị cháu trai mình là hoàng thái tử Sampadi và đám quần thần rút dần hết quyền hành và đối xử tệ bạc. Chúng ngăn cản ông làm điều lành và rút dần phần ăn của ông cho đến khi chỉ còn nửa trái àmalaka cho mỗi bữa ăn. Mặc dù bị ngược đãi, ông vẫn tiếp tục hạnh bố thí cúng dường của mình, chia sẻ với chư Tăng các phần ăn sau cùng và kham nhẫn sống với niềm vui Chánh pháp cho đến lúc qua đời. Trong suốt 38 năm trị vì, Asoka là nhà lãnh đạo thuận ý dân (avirodha). Ông thường xuyên thảo luận và lấy ý kiến của dân trước khi đề xuất các chính sách(19). Ông ra lệnh cho các quần thần phải theo hạn kỳ tuần du nhằm phổ biến chính sách nhà nước và xem xét hiện tình đời sống nhân dân và chính ông cũng thường xuyên du hành nhằm nắm bắt tình thế, giáo dục nhân dân. Không một cuộc bạo loạn nào được ghi nhận đã nổ ra trong suốt thời gian trị vì của ông bởi đời sống quần chúng được tiến bộ đáng kể về đạo đức và hạnh phúc (20).

II. Phật đạo hóa đường lối ASOKA

Asoka đọc kỹ các bản kinh Phật, thấy rõ giá trị thực tiễn của giáo lý đạo Phật đối với cuộc sống đạo đức và hạnh phúc của con người nói chung nên đã không bỏ qua cơ hội vận dụng nguồn giáo lý này vào đường lối trị quốc của mình. Ngoài ra, ông cũng nhận ra giá trị to lớn của tinh thần từ bi bất bạo động và lý tưởng hòa bình mà Phật giáo luôn đề cao và đã nỗ lực theo đuổi các lý tưởng ấy thông qua đường lối đối ngoại.

1. Đường lối trị quốc :

Về đường lối trị quốc, các bi ký cho thấy Asoka chịu ảnh hưởng tư tưởng đức trị được đề cập trong các kinh điển Phật giáo. Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống, số 26, Trường Bộ, mô tả vai trò trị quốc của một minh quân như sau; Vua là người yêu quý sự thật (Dharma) và tôn trọng sự thật, tự trở thành người bảo vệ hợp pháp cho thứ dân, quân đội, Sát đế lỵ, quần thần, Bà la môn, Sa môn; cho gia chủ, thị dân, thôn dân; cho các loài thú và loài chim. Trong quốc độ, nhà vua là người sống chân chính, đúng pháp; bảo đảm đời sống cho muôn dân; tôn trọng các bậc đức hạnh; khuyến khích mọi người làm lành và ngăn chặn mọi người làm ác. Kinh Kùtadanta, số 5, Trường Bộ, nói đến cảnh một đất nước thái bình thịnh trị trong đó các vua quan hết lòng thương yêu chăm lo cho dân, không dùng chính sách đàn áp, không đánh sưu cao thuế nặng, biết vận dụng các chính sách thỏa đáng, tạo công ăn việc làm thích hợp cho dân, khiến dân được yên ổn, chăm lo làm ăn, mọi người được an vui, nhà nhà được an vui, sống với cửa nhà rộng mở: “Thuở xưa, này Kùtadanta, có một vị vua tên là Mahàvijita rất giàu có, tài sản của cải chất thành đống, sở hữu vô số vàng bạc và châu báu. Một hôm, đang ngồi ở nơi nhàn tịnh, nhà vua suy nghĩ: “Ta đã sở hữu nhiều tài sản, đã chiếm được một vùng đất đai rộng lớn. Nếu nay ta tổ chức một đàn tế lớn, như vậy phải chăng ta sẽ được lợi ích và an lạc lâu dài? Nhà vua liền cho gọi người chủ tế và bảo cho ông ta biết về suy nghĩ của mình. Vị chủ tế liền tâu: “Nay vương quốc của bệ hạ đang gặp tai ương bởi nạn cướp bóc, làng mạc và thành thị bị tàn phá, nông thôn nhan nhản kẻ cướp. Nếu bệ hạ cho đánh thuế các vùng này thì đó là việc làm sai lầm. Nếu bệ hạ nghĩ rằng: “Ta sẽ tiêu diệt nạn cướp bằng cách hành hình, tống tù, tịch thu, đe dọa trục xuất”, như vậy nạn cướp này sẽ không hoàn toàn chấm dứt. Những kẻ sống sót sẽ tiếp tục nhiễu loạn vương quốc của bệ hạ. Tuy nhiên, bằng cách này, bệ hạ có thể loại sạch nạn cướp, tức là, những ai trong vương quốc của bệ hạ chuyên việc canh tác và chăn nuôi, bệ hạ hãy cung cấp hạt giống và thực phẩm gia súc cho họ; những ai chuyên việc kinh doanh, bệ hạ hãy đầu tư tiền vốn; những ai phục vụ triều chính, bệ hạ hãy trả tiền lương đủ cho họ sinh sống. Những người này, do mải mê làm công việc của mình, sẽ không nhiễu loạn vương quốc của bệ hạ. Thu nhập của bệ hạ ngày càng tăng, xứ sở được thanh bình, không còn tai ương cướp bóc, dân chúng hân hoan, vui đùa với con cái và sống với cửa nhà rộng mở"(21).

Asoka mong muốn xây dựng một vương quốc thánh thiện dựa trên đạo đức và Chánh pháp (Dharma). Ông chủ trương đường lối đức trị, chinh phục lòng người bằng đạo đức nhân ái (Dharma-vijara). Điều này được thể hiện qua việc nỗ lực truyền bá và nêu cao đạo đức, hết lòng chăm lo hạnh phúc cho dân, không dùng hình phạt, điều chỉnh sưu thế, tạo công ăn việc làm cho dân, tăng cường chế độ phúc lợi xã hội, có chế độ ưu tiên trợ giúp cho người nghèo khó, già cả, kẻ lầm đường lạc lối, ân giảm hình phạt cho các phạm nhân.

Trước hết, về lý tưởng phục vụ, nhà nước Asoka là một nhà nước vì dân. Asoka thương dân như con cái (22) và nỗ lực làm việc hết mình vì hạnh phúc của nhân dân (23). Ông làm việc không kể giờ giấc và nơi chốn. Ông bảo các quan chức có trách nhiệm phải báo cáo ngay cho ông những vấn đề liên quan đến đời sống nhân dân, thậm chí khi ông đang ăn, đang ngủ, đang ở hậu cung, đang ở chỗ thuyết giáo hay đang vui chơi (24). Bia ký VIII ghi nhận sự kiện Asoka thay thế các cuộc dạo chơi săn bắn của hoàng gia (vihàra-yàtrà) bằng những cuộc du hành (dharma- yàtrà) thăm viếng tặng quà, thảo luận và giáo dục quần chúng nhân dân. Tiểu bi ký I cho hay Asoka đã thực hiện nhiều cuộc du hành khuyến giáo nhân dân, kết quả là dân chúng Ấn Độ (Jambudvìpa) ngày càng yêu mến đạo đức và sùng tín tôn giáo.

Trong công tác quản lý và điều hành quốc gia, Asoka thành lập đội ngũ quan chức triều đình các cấp có trách nhiệm chăm lo và sẵn sàng phục vụ lợi ích của nhân dân. Ông huấn luyện rất kỹ đội ngũ quan lại các cấp, giáo dục họ phải nêu gương cho mọi người; họ phải làm việc chuyên cần, chí công vô tư, phải tận tụy với dân, không được cậy quyền thế làm điều xằng bậy và hạch sách nhân dân. Với Asoka, người lãnh đạo phải có lòng thương dân như cha mẹ thương yêu con cái và phải tận tụy chăm lo cho dân như người vú nuôi ân cần chăm lo cho con trẻ. Trong cách nói của mình, Asoka ví dân như trẻ thơ, quan lại như người vú nuôi. Dân cần được chăm lo chu đáo bởi các quan lại cần mẫn, giống như những đứa trẻ cần được chăm nom chu đáo bởi những người vú nuôi ân cần(25). Có thể nói rằng về phương diện phục vụ nhân dân, Asoka chịu ảnh hưởng sâu sắc lý tưởng phụng sự chúng sinh của Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài. Cuộc đời Đức Phật là tấm gương lớn về lý tưởng phụng sự chúng sinh và Ngài thành lập Tăng đoàn cũng nhằm mục đích phục vụ lợi ích và an lạc cho mọi người. Nalinaksha Dutt cho rằng chính lý tưởng phụng sự chúng sinh của Đức Phật đã khiến Jivaka mang toàn bộ vốn liếng y học của mình phục vụ Tăng Ni, Anàthapindika và Visakhà dốc tài sản ra vì lợi lạc của các tu sĩ, Asoka ban bố các tiện nghi vật chất và giáo dục đạo đức vì lợi ích của thần dân và các dân tộc láng giềng (26). Asoka thương dân như cha mẹ thương yêu con cái và nỗ lực làm việc hết mình vì lợi ích của nhân dân tức là ông noi theo đức hạnh từ bi của Đức Phật và các Thánh tăng. Kinh Từ Bi (Mettasutta) nói: “Như tấm lòng người mẹ đối với người con một của mình, trọn đời lo che chở cho con. Cũng vậy, đối với tất cả các loài hữu tình, hãy nuôi dưỡng tâm ý không hạn lượng, rộng lớn: “Mong mọi loài chúng sinh, được an ổn, chứng đạt được hạnh phúc và an lạc (27)”. Trong các chỉ dụ của mình, Asoka nói: mọi nỗ lực của ông đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích và hạnh phúc của tất cả chúng sinh (28). Xem ra câu nói này của ông có phần nào giống với lời tuyên bố của Đức Phật trong các bản kinh Pàli: “Như Lai ra đời vì hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho chư Thiên và loài người”. Đức Phật chứng minh lời tuyên bố phụng sự chúng sinh bằng 45 năm thuyết pháp độ sinh của Ngài. Asoka nỗ lực phục vụ nhân dân gần 40 năm. Sự kiện này thêm một bằng chứng cho thấy Asoka đã theo gương Đức Phật khi Ngài quyết định thành lập Tăng già với  mục đích mở rộng công tác phụng sự chúng sinh thông qua đội ngũ các tu sĩ Phật giáo. Luật tạng Pàli (Pàli Vinaya Pitaka) ghi nhận sự kiện rằng khi số thành viên của Tăng già lên tới 61 vị, Đức Phật liền khuyên các đệ tử mình đi khắp mọi nơi nhằm phổ biến giáo lý của ngài. Đức Phật căn dặn các học trò của mình không nên đi hai người một hướng mà nên đi mỗi người một hướng để cho việc truyền bá Chánh pháp được phổ biến rộng rãi (29).

Về phương diện xây dựng đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội, Asoka kế thừa đầy đủ tư tưởng đạo đức Phật giáo. Ông đề cao nếp sống không sát sinh, hiếu kính cha mẹ, tôn trọng thầy cô giáo, giúp đỡ bà con bạn bè, đối xử nhân hậu với người ăn kẻ ở, cung kính cúng dường các Sa môn, Bà la môn, những việc làm mà kinh Phật cho là căn bản và cần thiết để chiến thắng hai đời, đời này và đời sau(30). Ông nhấn mạnh tính chân thực, trong sạch, thánh thiện, bố thí, tín tâm, bất hại, từ hòa, tự chế, yêu mến sự thật, tiết kiệm, những đức tính mà đạo Phật đã xem là có khả năng mang lại hạnh phúc (sukha) hay vận may tối thượng (mahàmangala) cho những ai khéo nuôi dưỡng (31). Asoka quan niệm một đời sống hạnh phúc phải là một đời sống đạo đức được thể hiện bởi mỗi cá nhân trong tất cả các mối quan hệ với tự nhiên, gia đình và xã hội. Ông kêu gọi mọi người tôn trọng sự sống bằng cách không sát sinh cho dù là sinh vật, tránh xa tội lỗi, làm các điều lành, sống tiết độ, chân thực, trong sạch, thanh cao, trọng lẽ phải, không tiêu xài xa xỉ, biết chia sẻ và giúp đỡ người khác, có thái độ nhu hòa đối với mọi người. Có thể nói rằng Asoka đã xây dựng tư tưởng đạo đức của mình dựa trên các bản kinh Phật, đặc biệt là hai bài kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt (Singàlovàda Suttanta) và Vận may tối thượng (Mahàmangala Sutta). Tất cả các đức tính, bổn phận và trách nhiệm đạo đức mà bi ký Asoka nhấn mạnh đều được đề cập đầy đủ và dẫn giải chi tiết ở trong hai bài kinh này.

Asoka xem trọng đạo đức, đề cao đạo đức và nỗ lực truyền bá đạo đức. Ông sống cuộc đời đạo đức và nỗ lực hết mình vì sự nghiệp ấy. Ông khuyên răn con cái, cháu chắt và tất cả thần dân của mình phải muôn đời sống trong đạo đức và phải có trách nhiệm phổ biến đạo đức Phật giáo. Với Asoka, đạo đức là nền tảng của hạnh phúc; do đó theo ông, sống đạo đức và khuyến khích đạo đức phải là trách nhiệm của mỗi người và mọi người. Ông đề cao đạo đức bằng cách đề cao Pháp thí (Dhrama-dàna), bởi không có loại bố thí nào cao quý hơn Pháp thí, nghĩa là, tự mình không sát sinh, hiếu kính cha mẹ, cung kính cúng dường các Sa môn, Bà la môn, giúp đỡ bà con bạn bè, đối xử nhân hậu với kẻ ăn người ở và khuyến khích người khác làm điều tương tự (32). Quan điểm này của Asoka hoàn toàn phù hợp với quan niệm Pháp thí (Dhamma-dàna) được nói đến trong Phật giáo. Trong bài kệ số 345 thuộc tuyển tập Pháp Cú, chúng ta tìm thấy câu “Sabba-dànam dhammadànam jìnàti” có nghĩa là, trong tất cả các loại bố thí, bố thí Pháp là bố thí tối thượng. Pháp thí (Dhamma-dàna) tức là ban bố sự thật cho người khác hay giúp người khác nhận ra điều hay lẽ phải. Chẳng hạn, trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái thì ngoài việc chăm sóc nuôi dưỡng con cái, cha mẹ còn có trách nhiệm khuyên ngăn con làm điều ác và khuyến khích con làm điều lành. Đáp lại, người con có bổn phận không những lo phụng dưỡng cha mẹ bằng của cải vật chất làm ra đúng pháp mà còn khuyến khích, hướng dẫn và an trú cha mẹ vào Chánh pháp. Tăng Chi Bộ kinh (Anguttara Nikàya) nêu rõ quan niệm báo hiếu của đạo Phật trong đó Pháp thí (Dhamma-dàna) được nhấn mạnh và được xem là việc làm duy nhất đủ để đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ. “Này các Tỷ kheo, những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với của cải, vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng này các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha”.

Phân tích đoạn kinh trên, Tỷ kheo Thích Minh Châu nói rằng: “Khởi điểm là xây dựng lòng tin nơi cha mẹ nếu cha mẹ chưa có lòng tin. Lòng tin ở đây là lòng tin Chánh pháp và Chánh pháp không có nghĩa là lời Phật dạy mà Pháp còn có nghĩa là chân thật, là quyết định tánh hiền thiện. Pháp là những gì chân thật, không có hư vọng, không có giả dối; Pháp là những gì hiền thiện tốt đẹp, không phải độc ác bất thiện. Và xây dựng lòng tin cho cha mẹ là xây dựng tính chất chân thực, tính chất hiền thiện nơi cha mẹ. Lời khuyên thứ hai là một thông điệp bỏ ác làm lành. Nếu cha mẹ theo ác giới, tức là sống một nếp sống không lành mạnh, nhiều bất thiện, thời khuyên cha mẹ làm các thiện hạnh về thân, về lời, về ý nghĩ, sống một đời sống trong sạch và hiền thiện. Thứ ba là một lời khuyên nhân đạo, lợi tha, khuyên cha mẹ nghĩ đến sự đau khổ của người khác mà bố thí, làm vơi nhẹ những khổ đau chung quanh, nghĩ đến tình nhân loại. Lời khuyên thứ tư không theo ác tuệ, là một lời khuyên chánh kiến, từ bỏ các ác tri kiến, phát triển những tri kiến chân thật, xây dựng một cái nhìn lành mạnh và hướng thiện cho cuộc đời (33).

Như vậy, Pháp thí cơ bản là khuyến khích người khác bỏ ác làm lành, một hình thức giáo dục đạo đức rất đơn giản nhưng thiết thực mà mọi người đều có thể thực hiện thông qua nếp sống của chính mình. Tự mình bỏ ác làm lành rồi khuyến khích người khác bỏ ác làm lành, đấy là Pháp thí. Asoka chú ý vận dụng tinh thần Pháp thí này của Phật giáo bởi nó giúp ông rất lớn về phương diện nâng cao đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội mà không phải tốn kém nhiều cho chi phí giáo dục. Ta có thể nói rằng: chính tinh thần Pháp thí này – tự mình sống đạo đức, sống theo lẽ phải và khuyến khích người khác sống đạo đức, sống theo lẽ phải – mà Asoka học được từ Phật giáo và vận dụng triệt để vào đường lối trị quốc của ông đã góp phần tạo nên một bộ mặt hoàn toàn mới mẻ của đời sống con người và xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Đạo đức cá nhân, đạo đức gia đình và đạo đức xã hội được tăng trưởng đáng kể so với các thời đại trước đó. Thông tin bi ký IV cho hay hàng trăm năm trước đó, việc giết hại súc vật để tế lễ, đối xử tàn ác với sinh linh, xử sự không đúng với thân bằng quyến thuộc, với các Sa môn, Bà la môn đã không ngừng gia tăng. Nhưng kể từ năm thứ mười hai triều đại Asoka, nhờ các huấn chỉ của ông, dân chúng Ấn Độ đã tiến bộ đáng kể về phương diện đạo đức. Họ từ bỏ sát sinh, không làm hại sinh linh, xử sự đúng đắn với người thân, tôn trọng các Sa môn, Bà la môn, hiếu kính cha mẹ và các bậc trưởng thượng.

Chúng ta cũng đừng quên tôn giáo đã đóng vai trò quan trọng trong chính sách của Asoka và trong đời sống xã hội. Chính các tôn giáo mà Asoka xem trọng và đối xử bình đẳng đã giúp ông rất lớn về phương diện giáo dục đạo đức quần chúng và nâng cao đời sống tâm linh của xã hội. Asoka học được tinh thần hộ trì chân lý (saccànurakkhana) của Đức Phật – một người có quyền theo đuổi đức tin của mình nhưng không vì thế mà bài xích đức tin của người khác – và biến nó thành đạo dụ tôn trọng tự do tín ngưỡng và thái dộ bao dung tôn giáo trong đường lối trị quốc của ông. Đức Phật từng khuyên Upàli, vị gia chủ giàu có xứ sở Nalanda, và Sìha, vị tướng quân người Licchavì, tiếp tục ủng hộ cho các tu sĩ phái Kỳ Na (Jainism) sau khi hai vị cựu tín đồ Kỳ Na giáo này tuyên bố quy ngưỡng Tam bảo. Trong bi ký XII, Asoka sử dụng tinh thần hộ trì chân lý của Phật giáo để ban bố chính sách tôn giáo với lời lẽ như sau: “Người ta không nên chỉ kính trọng tôn giáo của mình và bài xích tôn giáo của người vì lý do này hay lý do khác. Vì làm như thế, người ta chẳng những tự làm tổn thương tôn giáo của mình mà còn làm thương tổn tôn giáo của người khác. Về phương diện nào đó, mọi tôn giáo đều xứng đáng được tôn trọng. Người nào kính trọng tôn giáo của mình và bài xích tôn giáo của người khác, nghĩ rằng: “Như thế ta sẽ làm rạng danh tôn giáo của ta”, thì trái lại người ấy tự làm tổn thương tôn giáo của chính mình”.

Sẽ có người cho rằng hòa đồng tôn giáo là sách lược của các nhà làm chính trị và là đặc điểm chung của mọi nhà nước chuyên chế. Quả đúng như vậy, nhưng trong trường hợp này ta không loại trừ khả năng rằng cách thái bao dung của Đức Phật và những lời dạy chí tính chí lý của Ngài về đức tin và lòng bao dung tôn giáo đã tác động mạnh mẽ đến Asoka và ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách tôn giáo của ông.

Về phương diện chăm lo đời sống cho nhân dân, ông thực hiện chính sách không đánh sưu cao, thuế nặng. Trụ đá Rummideì ghi sự kiện Asoka ban lệnh miễn các loại thuế tôn giáo cho dân làng Lumbinì và họ chỉ phải đóng một phần tám lợi tức sản xuất. Mặc dù Asoka rất tiến bộ về đường lối trị quốc nhưng ta không nên quá lý tưởng hóa các chính sách của Asoka mà cho rằng nhà nước của ông hoàn hảo về mọi mặt, nhất là chế độ sưu thuế, bởi nhà nước nào cũng vậy, đều phải trông cậy rất lớn vào sưu thuế mới đứng vững. Tài liệu Arthasàstra và những ghi chép của Mégasthènes cho chúng ta biết đời sống kinh tế ở đế quốc Maurya thế kỷ thứ IV trước Tây lịch; về thương mại phát triển trong toàn đế quốc, các tuyến đường lớn nối liền các vùng cách xa nhau hàng nghìn dặm; hàng hải được mở rộng thu hút nhiều thương thuyền các nước cập bến; quan hệ buôn bán với nước ngoài được khuyến khích; thương nhân nước ngoài được biệt đãi và được hưởng đặc quyền ngoại giao. Nhiều tài liệu cho biết, những người cổ Ai Cập đã dùng the Ấn Độ để bọc các xác ướp và dùng loại chàm từ Ấn Độ để nhuộm vải vóc. Người ta cũng nõi đến chinapatta, tên một loại lụa sản xuất ở Trung Quốc. Sự kiện hàng tơ lụa được nhập từ Trung Quốc chứng tỏ Ấn Độ đã có quan hệ buôn bán với Trung Quốc ít ra là từ thế kỷ IV trước Tây lịch. Tại các thành phố lớn và đô thị, cuộc sống xa hoa phát triển, các hoạt động trở nên phức tạp hơn, chuyên môn hóa hơn và được tổ chức tốt hơn. Các quán hàng, lữ điếm, hiệu ăn, nhà khách, sòng bạc mọc lên rất nhiều. Các phường hội thu hút các hội viên, nghề chơi bời du hý tạo công ăn việc làm cho nhiều lớp người như vũ nữ, ca sĩ, kỹ nữ. Buôn bán và các ngành nghề khác đều bị đánh thuế và về phương diện nào đó, việc hành nghề tôn giáo cũng vậy. Nông nghiệp được phát triển và chỉnh đốn về nhiều mặt kể cả tô thuế. Nhà nước điều chỉnh thuế và theo từng thời kỳ kiểm tra lương thực, thị trường, các nhà sản xuất, các lò mổ, việc nuôi trâu bò, quyền sử dụng nước. Như vậy ngay trước thời Asoka, đời sống kinh tế Ấn Độ đã phát triển mạnh và nhà nước đã biết cách tổ chức và quản lý tốt để tăng ngân sách quốc gia từ nguồn thu thuế.

Asoka lên ngôi thừa hưởng các điều kiện xã hội đã được tổ chức tốt và phát triển trước đó nên hình như không gặp nhiều khó khăn trong việc điều hành và quản lý quốc gia. Chắc chắn ông đã duy trì cơ cấu tổ chức và quản lý kinh tế đã có từ trước bởi điều này sẽ khiến ông thu được nguồn lợi nhuận đáng kể. Điều khiến chúng ta có thể tin là Asoka đã không quá khắt khe trong chế độ sưu thuế bởi thứ nhất ông là người chối bỏ chiến tranh, kiên quyết theo đuổi đường lối hòa bình và vì thế không phải lo chi tiêu nhiều cho quân đội và binh bị, những thứ vốn ngốn rất nhiều ngân sách quốc gia. Thứ hai, nhà nước của ông cũng không phải là loại nhà nước tiêu xài vô độ bởi lẽ Asoka chính là tấm gương sáng về lối sống giản dị, cần kiệm, liêm chính; các quan lại của ông cũng được giáo dục tốt về lý tưởng phục vụ lợi ích cộng đồng và nếp sống liêm khiết, cần kiệm. Chính hai yếu tố hòa bình và cần kiệm liêm chính này, mà hết thảy vua quan nhà nước Asoka đều nhất mực theo đuổi, đã một mặt khiến cho dân chúng tránh được can qua bởi chiến tranh và nạn sưu thuế và mặt khác có thể hưởng các chế độ phúc lợi xã hội do việc nhà nước biết sử dụng hợp lý nguồn lợi tức quốc gia cho các công trình công ích trong điều kiện đất nước thái bình, không có chiến tranh. Bi ký II cho biết Asoka đã cho xây dựng khắp nơi trong vương quốc của ông hai loại hình chăm sóc y tế, một dành cho người và một dành cho thú vật. Các loại cây dùng làm thuốc và cây ăn quả được nhập khẩu và cho trồng khắp nơi nhằm đáp ứng công tác chữa trị và tiêu dùng. Dọc theo các lộ giới, các giếng nước được xây dựng và các loại cây tạo bóng mát được gieo trồng (34). Một thông tin khác cho biết Asoka cho dựng các nhà nghỉ dọc hai bên đường dành cho khách bộ hành, lập các trạm cung cấp nước tại những nơi công cộng để phục vụ tiện ích cho người và thú. Rõ ràng những công trình phúc lợi xã hội trên đây chỉ có thể được làm tốt và có hiệu quả trong điều kiện đất nước hòa bình, không có chiến tranh; các quan chức chính phủ sống liêm khiết, không tham nhũng.

Một lý do khác khiến chúng ta tin rằng Asoka đã áp dụng chính sách sưu thuế hợp lý ấy là bởi hầu như không có cuộc bạo loạn nào xảy ra trong vưong quốc của ông suốt thời gian ông trị vì. Bạo loạn bắt nguồn từ nghèo đói và bất mãn, nhưng cả hai yếu tố này xem ra đã được khắc phục tốt dưới thời Asoka. Chắc chắn Asoka đã thường xuyên điều chỉnh các chính sách của ông và có chế độ miễn giảm tô thuế cho dân cày vào những lúc dân chúng gặp cảnh khốn khó hay trong trường hợp bị thiên tai lũ lụt. Ta có thể hoàn toàn tin tưởng ở điều này bởi trong nhiều chỉ dụ, Asoka luôn nhắc nhở các quan chức chính phủ phải thường xuyên nắm bắt nguyên nhân hạnh phúc và khổ đau của quần chúng và phải làm việc hết mình vì hạnh phúc của nhân dân (35), để kịp thời chia sẻ và giúp đỡ. Mặt khác, Asoka ra lệnh tất cả mọi sự kiện liên quan đến đời sống nhân dân đều phải được thông báo ngay cho ông vào mọi lúc mọi nơi để ông kịp thời giải quyết (36). Rõ ràng quan điểm và cách làm việc này của vua quan nhà nước Maurya khiến chúng ta có lý do để tin rằng dân chúng Ấn Độ dưới thời Asoka không những thoát khỏi cảnh hà khắc về sưu thuế mà còn hưởng được các chế độ trợ giúp đặc biệt và kịp thời của nhà nước trong trường hợp gặp nguy khó. Mégasthènes cho rằng cứu đói là mối quan tâm hàng đầu của nhà nước Maurya, và phân nửa số hàng trong các kho hàng của nhà nước được dự trữ là để phòng lúc khan hiếm và đói.

Do tấm lòng thương dân và nhờ biện pháp quản lý kinh tế khá hiệu quả, chính sách chăm lo hạnh phúc cho dân của nhà nước Asoka vươn khắp mọi ngõ ngách đời sống xã hội. Vệ sinh công cộng và bệnh viện được xây dựng, lương y được cắt cử làm việc tại các trung tâm. Cô nhi quả phụ, người già cả, ốm đau, tàn tật được hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước. Phụ nữ lầm đường lạc lối được chăm lo giáo dục và được tạo công ăn việc làm thích hợp. Tù nhân được ân xá và có quyền kháng án trong trường hợp bị xử oan. Theo bi ký V, các quan chức Dharma-mahàmàtra có trách nhiệm xem xét đơn kháng án của phạm nhân, trợ cấp tiền bạc trong trường hợp tù nhân có gia đình quá đông người (37) hay phải lo cho con dại, đình chỉ khổ sai trong trường hợp tù nhân bị ngược đãi, phóng thích tù nhân trong trường hợp tuổi già. Trụ đá IV quy định các quan chức Ràjùka phải có trách nhiệm xem xét đơn kháng án của thân nhân các phạm nhân, tạo điều kiện để các tù nhân bị xử tội chết được làm việc thiện trong ba ngày với hy vọng hưởng được lợi ích đời sau. Cũng theo bi ký V, các đối tượng già yếu, không nơi nương tựa cũng được quan tâm đặc biệt bởi nhà nước Asoka. Trong chính sách đối với phụ nữ, các quan chức Stryadhyaksha-mahàmàtra có trách nhiệm bảo vệ lợi ích cho nữ giới, đặc biệt đối với các phụ nữ làm nghề múa hát, bán thân hay kỹ nữ (38). B.M. Barua cho rằng nhiệm vụ của các quan chức Stryadhyaksha-mahàmàtra là ngăn chặn, không để các hạng phụ nữ làm  hoen ố đạo đức xã hội, đặc biệt đối với các Sa môn, Bà la môn (39). Nếu ý kiến của Barua là đúng thì điều đó có nghĩa là nhà nước Asoka hẳn đã có chính sách đặc biệt dành cho những phụ nữ gặp cảnh ngộ bất hạnh, ít nhất phải tạo công ăn việc làm mới cho họ.

2. Đường lối đối ngoại

Ngoài chính sách nội vụ đáng được liệt vào hạng nhà nước hết lòng vì dân, nét nổi bật và đáng trân trọng của nhà nước Asoka có lẽ là chính sách bang giao quốc tế được tiến hành trên cơ sở theo đuổi đường lối hòa bình hợp tác, từ bỏ chiến tranh xâm lăng, tôn trọng chủ quyền độc lập dân tộc. Ngay sau ngày chiến thắng Kalinga, tức khoảng năm 262 trước Tây lịch trở đi, Asoka biểu lộ một động thái mà sử gia Will Durant gọi là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử (40). Ông công khai bày tỏ mối ân hận về công cuộc xâm lăng Kalinga, tuyên bố từ bỏ chiến tranh, chủ trương đường lối hòa bình triệt để. Ít có vị hoàng đế nào lại tỏ ra hối tiếc về hành vi xâm lăng của mình ngay sau khi vừa giành chiến công vang dội và xem việc chinh phục quân sự chẳng lấy gì làm vinh quang như Asoka. “Hoàng thượng Myadarsì cảm thấy vô cùng ân hận vì đã gây ra cảnh chết chóc đầy tang thương cho dân chúng một xứ sở độc lập. Người xem việc chinh phục bằng đạo đức nhân ái (Dharma-vijaya) là chiến thắng cao cả nhất(41)”. Asoka hối tiếc về chiến công quân sự của mình bởi ông hiểu ra điều mà Đức Phật gọi là quy luật muôn thuở: “Hận thù không bao giờ dập tắt được hận thù, chỉ có tình thương mới dập tắt hận thù (42). “Chiến thắng gây thêm thù oán, bại trận nuôi oán hận khổ đau; chỉ có từ bỏ thắng bại mới khiến con người được an lạc (43)”. Ông từ bỏ dùng sức mạnh quân sự và chủ trương thu phục lòng người bằng đạo đức nhân ái tức là ông tuân theo điều mà Phật giáo gọi là tự chiến thắng mình hơn chiến thắng người khác: “Dầu chiến thắng hàng vạn người trên chiến trường cũng không băng tự chiến thắng mình. Tự thắng mình là chiến thắng oanh liệt nhất (44)”.

Tự thắng mình nghĩa là làm chủ được bản thân mình, không để cho tham lam, giận dữ và si mê chi phối, thoát khỏi mọi ám ảnh bởi dục vọng, mọi cám dỗ bởi uy quyền, mọi toan tính bởi ham muốn, mọi mưu toan bởi sợ hãi. Nói khác đi, tự thắng mình tức là thoát khỏi nô lệ của bản thân, không còn làm những việc điên rồ bởi động cơ dục vọng, bởi lòng khao khát quyền lực hay sự toan tính sử dụng uy quyền. Đạo Phật không xem chiến thắng người khác bằng vũ lực là vinh quang bởi nó bắt nguồn từ những động cơ thấp hèn như tham lam, tật đố, ích kỷ, thù hận. Ngược lại, đạo Phật đánh giá cao việc tự thắng mình bởi đấy là khả năng chiến thắng bản thân, sự kiểm soát và điều phục thân tâm thoát khỏi các động cơ hèn hạ và việc làm tội lỗi bắt nguồn từ tham, sân, si. Mọi diễn biến tốt hay xấu của cuộc đời tùy thuộc vào quan điểm và hành động của chúng ta. Đức Phật gọi thế giới này là khổ đau bởi con người đã không kìm nén được ham muốn của chính mình. Ngài bảo thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho dục vọng bởi vì con người quá tham lam ích kỷ (45). Bạo động, chiến tranh và nhiều nguy cơ khác đe dọa sự sinh tồn của loài người đều có gốc rễ từ lòng tham không đáy của con người. Nó sẽ không ngừng thiêu cháy chúng ta và thiêu cháy cả thế giới nếu chúng ta không chiến thắng được các ham muốn của mình. Vì lẽ này, Đức Phật ví cuộc đời như ngôi nhà đang bốc cháy; thế giới của chúng ta đang bị thiêu cháy ngày đêm bởi chiến tranh và bạo động, bởi hận thù và si mê. Chúng ta thật xấu hổ và khổ đau khi phải sống trong một thế giới như vậy, cái thế giới mà lẽ ra người ta có thể làm cho nó đẹp hơn bởi tình thương và sự cảm thông thì ngược lại luôn luôn bị con người làm cho xấu đi bởi hận thù và lòng ích kỷ!

Asoka tuyên bố từ bỏ chiến tranh xâm lăng nghĩa là ông đã tự chiến thắng chính mình, chiến thắng các ham muốn của bản thân để không còn xúc tiến các hành vi xâm lăng và nộ lệ hóa người khác. Chiến tranh xâm lăng hay chinh phục người khác bằng vũ lực quân sự không gì khác là hành vi nô lệ hóa người khác. Một người không kìm nén tham lam và thù hận mới tiến hành chiến tranh xâm lăng gây khổ đau cho người khác. Sự kiện Asoka từ bỏ chiến tranh xâm lăng, theo đuổi đường lối hòa bình chứng tỏ ông đã nhận ra giá trị to lớn của tư tưởng tự chiến thắng mình và thấy rõ lợi ích của tư tưởng này trong đường lối xây dựng đất nước thái bình. Dân chúng của ông không còn lo sợ bị điều động vào quân đội, được tự do làm ăn sinh sống; tiền bạc lương thực không bị vơ vét cho chiến dịch quân sự, thay vào đó có thể dùng vào các mục đích an sinh xã hội. Có thể nói rằng Asoka đã làm một việc hết sức có ý nghĩa cho dân chúng của ông và dân chúng các nước khác khi quyết định từ bỏ chiến tranh xâm lăng và theo đuổi đường lối hòa bình. Ở đây ông đã theo gương Đức Phật thiết lập vô úy (abhaya) cho mọi người. Ông giải phóng dân chúng các nước khác khỏi tâm lý lo sợ bị tấn công và nô lệ bằng lời tuyên bố bao dung và hòa bình. Chỉ dụ ghi ở tiểu bi ký II nói rõ Asoka đã thực hiện tinh thần vô úy thí (abhaya-dàna) của Phật giáo đối với các quốc gia và dân tộc khác: "Các quốc gia biên giới chưa bị chinh phục có thể nghĩ như thế này: 'Nhà vua này muốn gì ở chúng ta?'. Mong muốn duy nhất của ta đối với các quốc gia này là họ hãy hiểu rằng họ không nên lo sợ mà hãy tin tưởng ở ta, rằng họ sẽ nhận được hạnh phúc từ ta chứ không phải khổ đau, và họ cần hiểu thêm rằng ta sẽ khoan dung tất cả và sẽ giúp họ thực hành Chánh pháp (Dharma) để được lợi ích đời này và đời sau”. Thật là một thông điệp hòa bình đáng lưu truyền cho muôn thuở! Will Durant cho rằng nếu cho tới ngày nay, từ Kandy ở đảo Tích Lan tới Kamakura ở Nhật Bản, nét mặt tinh anh của Đức Thích Ca còn gợi cho người ta tinh thần khoan dung với đồng loại và yêu mến hòa bình thì một phần là nhờ một người nhiều ước mơ – có thể một vị Thánh, chưa biết chừng – đã có thời làm vua ở Ấn Độ (46). Rõ ràng tình thương chúng sinh của Đức Phật đã phủ kín các chính sách của Asoka.

Tình thương của Đức Phật rất rộng lớn, không thể dùng tâm thái thông thường của con người mà đo lường được; tình thương ấy vượt ra ngoài mọi biên giới chủng tộc và văn hóa, tìm đến với hết thảy mọi người mọi loài, không một mảy may phân biệt. Chính tình thương chúng sinh của Đức Phật mà Asoka ít nhiều cảm nhận được đã mở đường cho chính sách hòa bình và bang giao hợp tác quốc tế của ông. Chính tình thương ấy là động lực khiến Asoka đem hết tâm sức của mình phụng sự chúng sinh, không phân biệt quốc gia hay dân tộc. Bi ký II, văn bản Jaugada, nói rõ nguyện vọng của Asoka muốn giới thiệu Chánh pháp (Dharma) và đường lối đức trị (Dharma-vijara) cho nhân dân các quốc gia khác “vì lợi ích đời này và đời sau”. Theo tài liệu Dìpavamsa và Mahàvamsa thì vua Tích Lan Devànampiya Tissa từng là bạn tốt và là đồng minh của Asoka; trong một văn thư gửi cho Devànampiya Tissa, Asoka thông báo ông đã quy y Phật, Pháp, Tăng và khuyên Tissa nên kính ngưỡng Tam bảo (47). Mối quan hệ giữa Ấn Độ và Tích Lan càng gắn bó chặt chẽ sau sự kiện Mahendra, con trai Asoka, nhận trách nhiệm giới thiệu Phật giáo vào Tích Lan. Biên niên sử Tích Lan (48) nói đến việc sứ giả hai nước liên tục qua lại với nhau nhằm chuyển đạt thông điệp hợp tác của hai hoàng đế vì lợi ích của hai dân tộc. Theo sử liệu này thì vua Tích Lan Devànampiya Tissa và 50.000 thần dân của ông đã trở thành những người Phật tử đầu tiên ngay sau khi Trưởng lão Mahendra vừa đặt chân lên đất nước này và thuyết giảng bài pháp thứ nhất. Tài liệu này cũng nói rằng sau khi nghe Mahendra thuyết giảng, hoàng hậu Anula và 500 thị tỳ của bà tỏ ý muốn xuất gia nhưng không thể thực hiện ý nguyện bởi giáo hội ở đây đang thiếu các thủ tục cần thiết cho nữ giới xuất gia. Vua Tissa sau khi xem xét sự việc đã phái sứ giả sang Ấn Độ, đệ trình Asoka ý nguyện của mình muốn mời Tỷ kheo ni Samghamitra, con gái Asoka, sang Tích Lan tiến hành các thủ tục xuất gia cho phụ nữ, đồng thời xin một nhánh cây bồ đề đem về trồng ở Tích Lan cho quần chúng kính ngưỡng. Tài liệu cũng cho biết mặc dù rất buồn lòng phải xa cách người con gái yêu quý của mình, Asoka đã đáp ứng yêu cầu của nhà vua Devànampiya Tissa, gửi Samg-hamitra sang đảo Sư tử và chiết tặng nhánh cây bồ đề cho sứ giả mang về Tích Lan. Tài liệu này còn nói rằng trong khi Asoka đang tham dự lễ tiễn chân sứ giả mang nhánh cây bồ đề về Tích Lan thì một phái bộ ngoại giao Tích Lan khác do Tăng sĩ Sumana, người cùng đi trong phái đoàn truyền giáo của Mahendra và là cháu ngoại Asoka, dẫn đầu, đến Ấn Độ truyền đạt ý nguyện của nhà vua Tích Lan xin thỉnh cầu Xá lợi Phật cho xứ sở mình. Asoka đáp ứng nguyện vọng của vua Tissa bằng cách gởi tặng nhân dân Tích Lan một đĩa đầy Xá lợi mà sau đó được tôn thờ tại bảo tháp Thuparama ở Colombo. Trong lịch sử Phật giáo Tích Lan sơ khởi, hai sự kiện được xem là gây ấn tượng lớn và không ngừng đánh thức lòng nhiệt thành mộ đạo của hàng triệu tín đồ Phật giáo ở đây, thứ nhất chính là nhánh cây bồ đề thiêng liêng do Asoka gởi tặng và thứ hai là chiếc răng Phật được mang từ Ấn Độ về Tích Lan khoảng 500 năm sau đó (49).

Nhưng quan hệ của nhà nước Asoka với các quốc gia khác không chỉ về phương diện tín ngưỡng và văn hóa. Song song với các phái đoàn truyền giáo được gửi đi khắp nơi trong và ngoài nước nhằm mục đích phổ biến Chánh pháp (Dharma) và giới thiệu đường lối đức trị (Dharma-vijaya), Asoka còn đẩy mạnh quan hệ hợp tác và trao đổi với các nước về các lĩnh vực khác như y học và trồng trọt. Bi ký II, văn bản Girnar, đề cập việc Asoka cho mở rộng mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe cho dân và điều trị cho thú vật không chỉ ở trong nước mà còn vươn sang các nước láng giềng. Bi ký này nói đến một số quốc gia được hưởng chế độ chăm sóc y tế của nhà nước Asoka gồm Chola, Pàndyạ, Sàtiyaputra, Keralaputra và Tàmraparnì ở phương Nam, Antiocho ở Tây Bắc và các quốc gia láng giềng với Antiocho. Tài liệu này cũng nói rõ việc Asoka cho xuất khẩu và nhập khẩu các loại cây làm thuốc và cây ăn quả để trồng trong nước và ở nước ngoài. Như vậy quan hệ giữa nhà nước Maurya và các quốc gia khác trở nên thân thiện và gắn bó không chỉ trên phương diện trao đổi tín ngưỡng, văn hóa mà còn thể hiện ở sự chăm sóc lẫn nhau cả về phương diện đời sống vật chất lẫn sức khỏe, tinh thần. Asoka đã mở rộng tâm thái từ bi của người Phật tử để làm lợi ích cho hết thảy mọi người, không phân biệt chủng tộc hay văn hóa, không tỵ hiềm quốc gia hay dân tộc.

Người ta có thể thắc mắc động cơ nào đã khiến Asoka dốc hết tâm lực của mình phụng sự nhân dân các nước khác, trong khi bản thân ông không hề nuôi mộng xâm lăng hay mưu toan chính trị. Quả thực, chúng ta quen nghĩ về cuộc đời này theo lối “không ai cho không ai điều gì” do đó khó có thể chấp nhận sự kiện một hành động trợ giúp nào đó lại không có động cơ hay mưu tính đi kèm. Mọi phân tích của chúng ta về cuộc đời quá hợp lý đến độ chúng ta không còn tin một người có thể làm điều tốt cho người khác mà không vì động cơ tư lợi hay toan tính cá nhân. Thật khó tin một ông vua giỏi chính trị như Asoka lại dễ dàng làm nhiều việc tốt cho các quốc gia khác mà không hề mưu tính chuỵện này chuyện kia, nhưng điều đó là sự thật. Asoka đã làm lợi ích cho nhiều quốc gia và dân tộc khác nhưng không hề có bất kỳ mưu toan nào về kinh tế hay chính trị cho đất nước của ông. Ông cảm nhận tình thương chúng sinh vô bờ bến của Đức Phật qua tấm gương thuyết pháp độ sinh đầy nhẫn nại của Ngài nên sẵn sàng làm tất cả mọi việc tốt lành cho người khác mà không hề mưu tính chuyện cá nhân hay mong chờ đáp trả.

Kinh điển Phật giáo lưu ý mọi người về bốn tâm thái rộng mở vô biên (catu-appamannà) hay bốn Phạm trú (catu-Brahmavihàrà) mà người ta cần nuôi dưỡng đối với mọi loài chúng sinh gồm: từ (mettà), bi (karunà), hỷ (mudità), và xả (upekhà). Từ (mettà) nghĩa là ban phát tình thương cho chúng sinh, bi (karunà) là xót thương nỗi bất hạnh khổ đau của loài hữu tình, hỷ (mudità) là hân hoan chia sẻ niềm vui với kẻ khác, xả (upekhà) là giữ tâm bình đẳng đối với mọi loài. Tất cả mọi người con Phật đều được khuyên nuôi dưỡng và phát huy bốn tâm thái này. Điều cần chú ý ở đây là bốn tâm thái từ, bi, hỷ, xả này phải được tu tập và nuôi dưỡng thường xuyên để cho năng lực cảm tác của chúng thẩm thấu khắp mọi nơi, trở thành rộng lớn, không bị giới hạn và mở ra cho đến vô tận (appamàna). Chẳng hạn, chúng ta có thể thấy tâm từ rộng lớn của một người Phật tử qua lối mô tả sau đây về mettà: “Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”. Vê tâm bi (karunà), tâm hỷ (mudità) và tâm xả (upekhà), người Phật tử cũng được khuyên vận dụng và phát triển theo cách tương tự.

Như vậy, Phật tử là người mở rộng tâm thái từ, bi, hỷ, xả đến với hết thảy mọi người và mọi loài, không phân biệt sắc thái chủng tộc hay văn hóa, không bị giới hạn bởi các biên giới quốc gia hay hào lũy dân tộc. Mọi chúng sinh đều bình đẳng về sự sống và sự chết, hạnh phúc và khổ đau. Asoka là một Phật tử, đã cảm nhận sâu sắc giáo lý từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật và đã vận dụng giáo lý ấy vào các chính sách trị quốc lẫn ngoại giao của ông. Ông tuyên bố chấm dứt bạo động chiến tranh và theo đuổi hòa bình, bất bạo động bởi tất cả chúng sinh đều lo sợ sự chết và yêu quý mạng sống (50). Ông chủ trương đường lối hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc bởi hết thảy mọi người đều mong muốn hạnh phúc và chán ghét khổ đau (51). Phật giáo đã giúp Asoka hiểu ra sự thật bình đẳng giữa mọi loài chúng sinh và chỉ cho ông những cách thái ứng xử hết sức sáng suốt và nhân bản trong tất cả các mối quan hệ gần xa. Trí tuệ Phật giáo đã soi đường cho chính sách Asoka. Lòng từ bi của Đức Phật đã mở lối cho thái độ hòa bình, tinh thần bao dung và mọi quan hệ hợp tác thân thiện mà nhà nước Asoka đã thiết lập với nhiều quốc gia và nhiều dân tộc khác trong khu vực và trên thế giới.

III. LỜI KẾT

Chúng ta nói đến Asoka với lòng kính trọng và khâm phục, một con người vĩ đại, một danh nhân lịch sử, đã có những cống hiến vô cùng to lớn cho cuộc đời này, đặc biệt về phương diện xây dựng đạo đức và hạnh phúc cho con người và thiết lập nền tảng hòa bình thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của Asoka xứng đáng là tấm gương cho mọi nhà lãnh đạo chân chính trên thế giới. Các truyền thuyết nói về cuộc đời và sự nghiệp của ông cũng như các chỉ dụ, bi ký và trụ đá do ông để lại mãi mãi là những bài học lớn và bổ ích cho mọi con người ở trong mọi thời đại, bởi nó gợi cho người ta về tính cách của một con người, về sự nỗ lực, lòng tận tụy, tình thương và lòng bao dung. Ông là một nhà lãnh đạo tài ba có khả năng chinh phục quân sự và đặt ách thống trị lên nhiều vùng lãnh thổ khác nhau nhưng đã tuyên bố khước từ mọi tham vọng xâm lăng, từ bỏ bạo động, chiến tranh và chủ trương hòa bình, bất bạo động. Chẳng những thế, Asoka còn có di ngôn để lại cho con cái, cháu chắt và hết thảy thần dân của mình phải muôn đời sống trong đạo đức, hòa bình và không được tìm kiếm bất kỳ cuộc chinh phục quân sự nào khác, ngoài việc thu phục lòng người bằng đạo đức nhân ái (Dharma-vijaya). Đáng tiếc thế giới của chúng ta không sản sinh nhiều con người như Asoka để đạo đức, nhân ái và hòa bình luôn ngự trị trên cõi đời này thay vì hận thù, bạo động và chiến tranh.

Trước khi chưa tiếp xúc với Phật giáo, cuộc đời và sự nghiệp của Asoka không tỏa sáng; trái lại còn có phần mờ ám và đáng phê phán bởi tham vọng và quyền lực. Nhưng kể từ khi gặp đạo Phật, Asoka bắt đầu sáng lên nhờ trí đức vốn có của một con người được Phật giáo đánh thức và cổ vũ. “Ai dùng các hạnh lành làm xóa mờ nghiệp ác, người ấy chói sáng giữa cõi  đời này, giống như ánh trăng thoát khỏi đám mây che phủ (52)”. Phật giáo đã đánh thức lòng nhiệt thành, tình thương và lòng bao dung trong con người Asoka và động viên ông dùng tâm thành để đối xử với mọi người, lấy tình thương xóa hận thù, dùng hiểu biết để bao dung tất cả. “Lấy không giận thắng giận, lấy thiện thắng không thiện, lấy thí thắng xan tham, lấy chơn thắng hư ngụy (53). Cuộc đời và sự nghiệp của ông đáng để người ta tin rằng một người có thể mắc phải sai lầm và hung ác trong quá khứ nhưng nếu biết chuyển đổi tâm tánh và quyết tâm theo đuổi điều thiện thì sẽ không còn mắc sai lầm và trở thành một con người hiền thiện. Quả vậy, với sự quy ngưỡng Phật giáo, Asoka đã thay đổi chính mình để từ một con người khét tiếng tàn bạo (Candàsoka) ông được tôn xưng là con người nhân từ (Dharmàsoka).

Về đường lối lãnh đạo của Asoka, chúng ta không có lý do gì để phê bình ngoài việc nhắc lại quan điểm của Walpola Rahula rằng ông đã có can đảm, đức tín và kiến giải đủ để áp dụng lời dạy của Đức Phật về bất bạo động, hòa bình và yêu thương trong việc cai trị một đế quốc rộng lớn với một chính sách đúng đắn từ trong nội bộ lẫn ngoại giao. Kết quả của đường lối trị quốc và ngoại giao ấy là thế nào, ai cũng thấy rõ. Điều đáng nói ở đây là Asoka đã kiên quyết theo đuổi chính sách bất bạo động, hòa bình và chứng minh với thế giới rằng bạo lực và chiến tranh chỉ gây thêm khổ đau và hận thù, trong khi bất bạo động và hòa bình mang lại hạnh phúc và yêu thương cho tất cả. Đường lối trị quốc bằng đạo đức nhân ái và chính sách bang giao quốc tế dựa trên cơ sở hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc mà Asoka áp dụng cũng khiến đem lại hạnh phúc và cảm thông lớn cho vô số người. Will Durant nói rằng Asoka thất bại về phương diện chính trị (54), nhận định này xem ra không chính xác bởi theo nguồn tin từ bi ký XIII thì Asoka không chỉ thu phục nhân tâm trong nước mà còn đạt được thành công lớn ở nước ngoài nhờ theo đuổi đường lối đức trị. Thật khó tin một đường lối trị quốc và ngoại giao đầy tình người và nhân bản như thế lại không thể nhận được những kết quả khả quan và không thu phục lòng người, dù ở bất kỳ thời đại nào.

Những người con Phật và dân chúng châu Á nói chung mang ơn Asoka rất lớn bởi nhờ ông mà giáo lý của Đức Phật được mở rộng, lan truyền khắp nơi, đem lại lợi ích cho nhiều quốc gia và làm giàu thêm vốn văn hóa của các dân tộc. Nhắc lại lời Will Durant cho rằng nếu cho tới ngày nay, từ Kandy ở Tích Lan tới Kamakura ở Nhật Bản, nét mặt an tĩnh của Đức Thích Ca còn gợi cho người ta tinh thần khoan dung với người đồng loại và yêu chuộng hòa bình thì một phần là do một người nhiều ước mơ – một vị Thánh, chưa biết chừng – đã từng một thời làm vua ở Ấn Độ. Công cuộc truyền bá Phật pháp do Asoka chủ trương và hậu thuẫn đã khiến cho nhiều vùng đất ở châu Á trở nên xanh tươi phì nhiêu, nhiều dân tộc trở nên hiền hòa và cao thượng, có tâm hồn thanh thản, hoan hỷ, dễ tiếp thu cái mới, có trí óc bình tĩnh để hiểu được hết thảy, tha thứ cho hết thảy và sau cùng có tấm lòng nhân từ bao dung luôn mở ra cho mọi loài.

Có người sẽ hỏi, Asoka là nhà lãnh đạo đã làm nhiều điều tốt như thế cho loài người, đặc biệt là đường lối hòa bình và lòng cảm thông giữa các dân tộc mà ông đã có công mở ra, nhưng tại sao không mấy ai noi theo tấm gương của ông? Đây là thắc mắc lớn đặt ra không những cho các nhà lãnh đạo trên thế giới mà còn cho tất cả mọi người chúng ta, những người đang sống trong một thế giới mà khoảng cách địa lý đã được thu ngắn rất nhiều nhưng khoảng cách giữa con người và con người thì hầu như ngày càng bị đẩy xa. Mặc dù rất dễ gặp gỡ và trao đổi với nhau ở mọi lúc và mọi nơi, nhưng chúng ta cũng phải nhận ra rằng con người ngày nay thiếu hẳn sự cảm thông lẫn nhau (55); và mặc dù sống trong điều kiện tối ưu của nền văn minh vật chất, nhưng chúng ta luôn cảm thấy thiếu thốn bởi khát vọng chiếm hữu và thế giới của chúng ta bị đốt cháy ngày đêm bởi hận thù, bạo động và chiến tranh. Phải nhận rõ sự thật về mình như thế mới hiểu được vì sao thế giới không đi đến hòa bình và không ai chịu nhường nhịn ai giữa các dân tộc, và phải nhận rõ về mình như thế thì mới hiểu được tại sao Asoka đã tạo được bầu không khí hòa bình và cảm thông lớn giữa các dân tộc, trong khi chúng ta thì không; bởi lẽ không ai khác mà chính mỗi con người chúng ta đang tạo ra các tường rào ngăn cách giữa mình và người khác và chính mỗi con người chúng ta đang trực tiếp thiêu cháy hay dự phần thiêu cháy cuộc đời này bởi tham lam, thù hận và si mê.

Mâu thuẫn ở trong mỗi con người chúng ta đã góp phần đẩy cuộc đời lâm vào cảnh trớ trêu. Hơn 25 thế kỷ trước, Đức Gotama đã ví cuộc đời này như ngôi nhà đang cháy, ý nói rằng bao lâu con người chưa dập tắt lửa tham, lửa sân, lửa si trong lòng mình thì thế giới này không tránh khỏi bị thiêu cháy và có nguy cơ đi đến hủy diệt. Đạo Phật xem tham lam (lobha), thù hận (dosa) và si mê (moha) là gốc rễ của mọi tranh chấp và xung đột và chiến tranh. Chính tham, sân, si – nguồn nhiên liệu vốn có sẵn trong mỗi người chúng ta, không thể đo lường và dường như không hề vơi cạn, chỉ chờ có cơ hội là bộc phát thiêu cháy tất cả – là nguyên nhân khiến con người không xích lại gần nhau và khiến cho thế giới luôn chìm trong khói lửa bạo động và chiến tranh. Nhưng con người sinh ra không phải để thiêu cháy chính mình và thiêu cháy cuộc đời này. Chính vì thế mà mỗi người cần phải nhận thức về các mồi lửa tham, sân, si ở chính mình. Phật giáo quan niệm hòa bình thế giới bắt nguồn từ hòa bình ở trong lòng mỗi người mà việc khuất phục gốc rễ tham, sân, si là căn bản. “Chiến tranh bắt nguồn trong tâm thức con người, do đó chính trong tâm thức con người, ý thức bảo vệ hòa bình phải được xây dựng (56).

Asoka tuân theo lời dạy của đạo Phật, quyết tâm theo đuổi đường lối hòa bình, bất bạo động và ông đã thành công nhờ ý chí kiên cường và thái độ dứt khoát  đối với chiến tranh và mọi ý tưởng liên quan đến chiến tranh. Ông từ bỏ xâm lăng quân sự và dập tắt mọi ý tưởng chiến tranh khiến cho các quốc gia và dân tộc khác không còn lo sợ bị tấn công hay lo lắng phòng thủ. Đây đích thực là thái độ hòa bình, đồng thời là biện pháp duy nhất và triệt để nhất để thiết lập hòa bình và cảm thông giữa các dân tộc. Ai đó bảo rằng một dân tộc nên yêu chuộng hòa bình nhưng phải luôn giữ cho thuốc súng được khô ráo (57). Câu nói chứng tỏ người nói quá già dặn về kinh nghiệm cuộc đời khiến ai nghe ra cũng dễ đồng tình, nhưng suy cho cùng câu nói này là luẩn quẩn bởi xem ra người nói đang bị ám ảnh bởi các kinh nghiệm luẩn quẩn của chính mình. Bảo người ta nên yêu hòa bình nhưng phải phòng thủ quân sự khác nào bảo một phụ nữ nên yêu chồng nhưng phải sắm sẵn một khẩu súng bắn ghen và phải thường xuyên đọc kỹ các điều khoản ly hôn! Cuộc đời là một vòng luẩn quẩn do con người vẽ nên và chấp nhận lê bước trong đó. Chúng ta phần lớn được giáo dục và hành động theo cách này bởi đó là giải pháp khá an toàn. Các nhà lãnh đạo cũng cố thuyết phục quần chúng theo cách này bởi đó là cái giải bọc hay nhất để củng cố địa vị và duy trì quyền lực. Chúng ta hô hào hòa bình nhưng âm thầm sửa soạn các phương tiện chiến tranh. Chúng ta bảo người khác không nên bạo động nhưng chính chúng ta thì nuôi dưỡng mầm mống chiến tranh. Kinh nghiệm về cuộc đời quá phũ phàng khiến chúng ta đôi khi không còn tin ở chính mình và người khác. Do đó chúng ta thường nói một đường làm một ngả. Lời nói và hành động của chúng ta mâu thuẫn nhau, thái độ hòa bình của chúng ta không dứt khoát, chúng ta không đủ tin chính mình và do đó không tin người khác về mọi thứ. Quả thực câu nói khiến cho chúng ta có cảm tưởng rằng con người chỉ nói được hai chữ hòa bình thôi mà không bao giờ sống được với hòa bình, bởi lẽ chúng ta không tin có hòa bình thực sự, không đủ can đảm để chấp nhận sự thật rằng hòa bình chỉ hiện diện bao lâu chúng ta từ bỏ chiến tranh và mọi ý tưởng liên quan đến chiến tranh, dù là chiến tranh tự vệ. Do đó, nếu cách nói và lối suy nghĩ này không được mỗi người chúng ta xem xét lại thì mọi nỗ lực của chúng ta cho hòa bình thế giới chẳng qua chỉ là bề nổi của tảng băng đang chìm mà thôi. Không ai dám chắc sẽ dập tắt các mồi lửa chiến tranh trong lòng người khác, trừ phi chính người ấy phải bắt đầu làm điều đó.

Asoka chỉ sinh ra đời một lần và những việc ông làm cũng chỉ giới hạn trong một phạm vi và thời gian nhất định, trong khi cuộc đời thì diễn tiến không ngừng. Tuy vậy ông đã để lại cho cuộc đời một bài học lớn, bài học của lòng nhiệt thành, sự tận tụy, tình thương và lòng bao dung, bài học của lòng tin ở chính mình và tin người khác trong tất cả việc làm và trong mọi quan hệ. Ông đã dùng tình thương xóa hận thù, dùng thiện nhân thắng hung ác, lấy thí xả thắng xan tham, dùng sự thật thắng gian tà. Asoka đã nêu một tấm gương lớn cho cuộc đời. Dù diễn tiến của cuộc đời không giống như ông mong muốn nhưng cách thái và di ngôn mà ông để lại vẫn luôn luôn là những chuẩn mực và kim chỉ nam cho những nhà lãnh đạo trên thế giới và cho tất cả những ai yêu mến đạo đức, trân trọng nhân ái, khao khát hòa bình và thương yêu đồng loại.

CHÚ THÍCH
(1) EB, II, Fascile, 2, tr. 190
(2)  RPBAI, tr. 64.
(3)  RPBBAI, tr. 64.
(4) Thích nữ Trí Hải, Đức Phật đã dạy những gì, tr. 204.
(5) 7 yếu tố khiến dân tộc Vajji hùng mạnh gồm: 1. Thường xuyên hội họp với nhau; 2. Hội họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, làm việc trong niệm đoàn kết; 3. Không ban hành những luật lệ không nên ban hành, không hủy bỏ những luật lệ nên được ban hành, sống đúng với truyền thống lâu đời; 4. Tôn trọng và lắng nghe lời khuyên của các bậc trưởng thượng; 5. Không cưỡng ép bắt cóc phụ nữ và thiếu nữ; 6. Tôn trọng giữ gìn các tự miếu và tiến hành các lễ hội đã có từ lâu đời; 7. Bảo hộ, che chở và hộ trì các bậc tu hành chân chính khiến cho cuộc sống đạo đức tâm linh ngày càng được nâng cao (Xem Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahàparinibbàna Suttanta), Trường Bộ I, tr. 541 – 44).
(6) Rhys Davids & H. Oldenberg. Vinaya Texts, phần I, tr. 194 – 96.
(7) Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử văn minh Ấn Độ, tr. 100.
(8) Bi ký VIII.
(9) Bi ký I; trụ đá V.
(10) Bi ký V, VI.
(11) V. A. Smith, Asoka, tr. 231 – 32.
(12) Bi ký XIII.
(13) Bi ký VIII.
(14) Bi ký I.
(15) Bi ký VIII.
(16) Tiểu bi ký I.
(17) Bi ký XIII; trụ đá VII.
(18) R. Mookerji, Asoka, tr. 4-5.
(19) Bi ký VIII.
(20) Bi ký IV.
(21) M. Walshe, The long Discourses of the Buddha, tr.135-36.
(22) Bi ký Kalinga I, II.
(23) Bi ký VI.
(24) Bi ký VI.
(25) Trụ đá IV.
(26) MCCV, tập I, tr. 12.
(27) Kinh Tiểu Bộ, tập I, tr. 508-09.
(28) Bi ký VI, X.
(29) Rhy Davids & H. Oldenberg, Vinaya Texts, phần I, tr.112-13.
(30) Kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt, số 31, Trường Bộ.
(31) Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt, Trường Bộ, và kinh Điềm lành lớn, Kinh Tập.
(32) Bi ký XI.
(33) Thích Thiện Siêu & Thích Minh Châu, Chữ Hiếu trong đạo Phật, tr.81-82.
(34) Trụ đá VII.
(35) Trụ đá IV.
(36) Bi ký VI.
(37) D.R. Bhandarkar, Asoka, tr. 63.
(38) B.M. Barua, Asoka and his Inscriptions, tr. 183.
(39) Như trên.
(40) Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử văn minh Ấn Độ, tr.99-100.
(41) Bi ký XIII.
(42) Pháp Cú, kệ số 5.
(43) Pháp Cú, kệ số 201.
(44) Pháp Cú, kệ số 103.
(45) Thích Minh Châu, Trung Bộ kinh, tr. 73.
(46) Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử văn minh Ấn Độ, tr. 103.
(47) V.A. Smith, tr.212.
(48) V.A. Smith, Asoka, tr.213-15; R. Mookerji, Asoka, tr. 35-36.
(49) P.V. Bapat, 2500 of Buddhism, tr. 75.
(50) Kinh Pháp Cú, kệ số 129 và 130, nói như thế này: “Tất cả mọi người đều sợ hình phạt, sợ tử vong và đều yêu quý mạng sống; hãy lấy mình làm ví dụ mà không giết hại hay khiến người khác giết hại”.
(51) Kinh Pháp Cú, kệ số 131, bảo: “Tất cả chúng sinh đều mong muốn được hạnh phúc; do đó người nào xây dựng hạnh phúc của mình trên sự khổ đau của người khác thì nhất định sẽ gặp bất hạnh đời sau”.
(52) Pháp Cú, kệ số 137.
(53) Pháp Cú, kệ số 223.
(54) Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử văn minh Ấn Độ, tr. 103.
(55) Xem A. Peccei & D. Ikeda, Before it is too late, tr. 92-94, đoạn nói về Liên lạc tăng, cảm thông giảm (More communications, less communion).
(56) Tuyên bố của UNESCO.
(57) Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử văn minh Ấn Độ, tr. 119. 

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.