>> Cùng với sự cầu nguyện
Dâng lễ, cố chà tiền lên chùa Đồng vì nghĩ rằng điều đó đem lại sự may mắn, phát tài cho họ
Ở lễ hội chùa Bái Đính (Ninh Bình), người ta sờ vuốt lên tượng Phật, tượng các vị La-hán để cầu được bình an, cầu sự may mắn; nhét tiền vào lòng, vào tay, thậm chí vào miệng các vị La-hán.
Những niềm tin mê lầm như thế là đầu mối sinh ra các tệ đoan làm tăng thêm tà kiến, nhận thức lệch lạc, làm mất mỹ quan và sự thanh tịnh của chùa, gây phản cảm cho khách hành hương, đánh mất nét đẹp văn hóa truyền thống và những giá trị tâm linh...
Trong một số lễ cầu siêu thủy táng tro cốt người quá cố, nhiều người rải tiền thật lẫn vàng mã xuống sông nơi có tro cốt của thân nhân mình. Họ tin rằng vong linh sẽ nhận được số tiền đó để tiêu xài. Có người còn khấn vái cúng số tiền đó cho thủy quan, hoặc có ý nghĩ vong linh người thân của mình sẽ dùng số tiền đó để dâng cho các thần linh ở cõi âm.
Tự mình tưởng tượng những điều không thể có rồi tin theo, làm theo nhau một cách nhiệt tình chẳng những vô ích mà còn gây nhiều thiệt hại cho mình và người khác.
Người Á Đông nói chung xưa nay có thói quen xem ngày tháng và cúng vái trước khi khởi sự động thổ, khởi công xây dựng nhà cửa, công trình; tẩn liệm, chôn cất người chết; cưới gả, xuất hành, khai trương…. Ít người khởi sự mà không chọn năm tháng, ngày giờ. Có những thông lệ đó là do kinh nghiệm, nhận thức chủ quan của một số ít người, sau đó phổ biến rộng rãi ra và truyền từ đời này sang đời khác. Khi nó đã ăn sâu vào tâm trí con người, trở thành quan niệm, nhận thức, nếp suy nghĩ, trở thành một phần của đời sống tinh thần thì thói quen, tục lệ đó rất khó bỏ.
Tự người ta vẽ cho mình một cái vòng và giam mình trong đó. Khi có suy nghĩ rằng ra khỏi cái vòng đó sẽ không đảm bảo an toàn nên người ta không dám bước ra, mặc dù điều đó là không thực, chỉ do họ tưởng tượng ra mà thôi. Cũng vậy, khi tự trói buộc mình vào những niềm tin không thật đó, tin tưởng con người phải bị lệ thuộc, chi phối bởi sự xung hợp của tuổi tác, năm tháng, ngày giờ thì con người sẽ không yên tâm, không cảm thấy an toàn, không cảm thấy tự tin khi làm bất cứ điều gì mà không xem ngày giờ.
Nếu người nào đã có niềm tin cố hữu như thế, họ dễ dàng gặp “xui”, làm việc không thành công, kém hiệu quả, tâm trạng bất an khi họ làm việc gì đó mà không xem ngày tháng tốt xấu. Điều này càng khiến cho họ tin tưởng hơn vào việc coi ngày (chọn ngày tốt, tránh ngày xấu), khiến họ cho rằng niềm tin của họ là đúng, có cơ sở thực tế (từ kinh nghiệm bản thân của họ). Nhưng thật sự thì không phải như họ nghĩ, chính vì tâm lý hoang mang, lo sợ, không tự tin làm việc (khi không coi ngày) mà họ không đạt được hiệu quả, không vững vàng và sáng suốt trong khi đi đứng, làm việc nên dễ xảy ra các rủi ro, chứ kỳ thực hoàn toàn không phải do năm tháng, ngày giờ xấu.
Có nhiều cặp vợ chồng xung khắc về tuổi tác (dựa vào sách vở hoặc lời thầy bói nói), hễ gặp chuyện không may trong gia đình hoặc vợ chồng bất hòa thì đổ lỗi cho tuổi tác xung khắc. Chính vì có lòng tin về tuổi tác, luôn nghĩ tuổi hai vợ chồng xung khắc nhau, bị điều đó ám ảnh nên cứ chăm chăm để ý, nhất nhất đều cho là tại tuổi tác mà ra. Họ không nhìn thấy rõ, không nhìn thấy sâu vào bản chất những vấn đề mà họ đang gặp phải trong đời sống vợ chồng, trong đời sống gia đình, từ đó không có sự điều chỉnh, khắc phục, giải quyết triệt để.
Có nhiều thầy phong thủy, thầy bói toán cũng điêu đứng vì bệnh tật, thất bại trong cuộc sống hoặc bị vợ con, người yêu, bạn bè làm khổ. Tại sao các vị ấy biết xem phong thủy, biết chọn năm tháng, ngày giờ, tuổi tác mà lại không tránh được tai họa, không tránh được những điều không may, bất như ý, không có được sự bình an, hạnh phúc bền vững lâu dài? Đó là nói về hoàn cảnh bản thân của họ (do biệt nghiệp mà ra). Còn những gì xung quanh họ, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với họ như hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh đất nước, hoàn cảnh thế giới (do cộng nghiệp tác động), thì họ càng không thể dựa vào khả năng chiêm tinh, bói toán hay phong thủy, hoặc niềm tin vào đấng thiêng liêng nào đó để trốn tránh hoặc làm thay đổi theo ý muốn chủ quan của mình.
Rõ ràng là không có một nhà đại phong thủy, đại chiêm tinh, không có một nhà tiên tri hay kỳ nhân dị sĩ nào có thể làm cho động đất, sóng thần, mưa lũ, dịch bệnh không xảy ra để quốc gia mình luôn thịnh vượng, hóa giải chiến tranh để thế giới hòa bình. “Bởi vì vạn sự vạn vật trên đời đều luôn biến chuyển đổi thay không dừng, không có gì trường tồn bất biến, tất cả đều trong trạng thái luôn thay đổi, đó chính là quy luật vô thường. Và mọi hoạt động trong đời sống của con người đều không thể vượt ra ngoài quy luật duyên sinh nhân quả”.
Nếu có thể đoán biết trước một trong muôn vạn điều về hoàn cảnh tương lai của bản thân, về tình hình quốc gia, khu vực, thế giới thì cũng đành bất lực, không thể trốn chạy thực tế hoặc làm thay đổi mọi sự việc theo ý muốn của mình, vậy thì biết trước chỉ thêm buồn rầu lo lắng, chỉ thêm rối loạn, khủng hoảng.
Đa phần nghĩ rằng biết trước để tìm phương cách ngăn chặn, tránh né, hoặc giải quyết, khắc phục, làm giảm hậu quả, thiệt hại. Tuy nhiên, khi kết quả đã đầy đủ điều kiện nhân duyên để tựu thành và sắp xảy ra thì không có cách nào thay đổi được, sớm muộn gì nó cũng biểu hiện dưới hình thức này hay hình thức khác vậy thôi.
Đời sống của mỗi cá nhân con người và sự tồn vong, suy thịnh của cộng đồng, xã hội, quốc gia, thế giới hoàn toàn tùy thuộc vào vô số điều kiện nhân duyên, nhiều mối quan hệ chằng chịt, đa chiều, trong đó tư tưởng, tâm ý và hành vi con người là yếu tố quyết định. “Do đó việc cần làm là chủ động tạo ra những điều kiện nhân duyên tốt, tích cực kiến thiết, xây dựng đời sống; không nên tạo nhân duyên xấu, tiêu cực để rồi tìm cách né tránh hậu quả, chạy trốn trách nhiệm, hoặc đợi khi hậu quả xảy đến rồi mới tìm cách khắc phục theo kiểu mất bò mới lo làm chuồng, khát đến mới đào giếng”.
Chính vì thế mà Đức Phật không chủ trương đoán biết kiết hung, họa phước. “Vì dù ai có túc mạng thông, thiên nhãn thông, hoặc có thể dựa vào một số biểu hiện, dữ kiện mà biết được tiến trình nhân quả, biết được những điều sắp xảy ra (vì tương lai vốn là kết quả của quá khứ), thì con người cũng không thể làm trái lại luật duyên sinh nhân quả”.
Đức Phật xem những quan niệm, nhận thức cho rằng họa phúc, kiết hung tùy thuộc vào năm tháng, ngày giờ, tuổi tác, tùy thuộc vào các ngôi sao, thiên thể đều là tà kiến; và nghề chiêm tinh, bói toán, xem tướng mệnh, năm tháng, ngày giờ là nghề tà mạng, bởi vì nó khiến cho con người nhận thức chủ quan, thiển cận, cục bộ, không thấy bản chất sự vật sự việc, không thấy sự thật.
Khi hiểu lý duyên sinh nhân quả thì ta mới thấy nhiều mặt của vấn đề, thấy toàn diện sự vật sự việc trên bình diện tương đối (còn cái thấy tuyệt đối như thật chỉ có ở người đã hoàn toàn giác ngộ giải thoát), và khi đó thì ta mới thật sự giải quyết được vấn đề một cách hiệu quả, triệt để. “Để tránh được những điều xấu, có được những điều tốt đẹp thì tâm ý và hành vi con người phải hướng đến những điều có tác dụng xây dựng, thiết lập cuộc sống và hạnh phúc, không hướng đến những điều có tác dụng phá hoại, gây trở ngại cho đời sống, tạo ra những bất hạnh khổ đau”.
Nhét tiền lẻ vào tay tượng
Việc đặt trọn niềm tin vào chiêm tinh, bói toán và cho rằng con người hoàn toàn chịu sự tác động của năm tháng, ngày giờ, tuổi tác, sự vận động của ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ-theo triết học cổ đại Trung Quốc) có tác hại rất lớn, bởi vì nó xuất phát từ nhận thức chủ quan, phiến diện, sai lầm. Ngoài năm yếu tố vật chất (ngũ hành) ra còn có yếu tố tâm linh, tinh thần. Đức Phật cho biết, con người và thế giới do ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cấu hợp tạo thành, trong đó thì yếu tố vật chất chỉ có một phần là sắc, bốn thành phần còn lại là thọ (cảm giác), tưởng (tri giác), hành (ý chí, năng lực phát động), thức (phận biệt, hiểu biết) đều thuộc về lãnh vực tinh thần.
Do đó ngũ hành chỉ là một trong bốn thành phần của ngũ uẩn, đó là sắc, mà cũng chỉ là phần vật chất thô thiển mà con người có thể nắm bắt chứ chưa phải là phần vật chất vi tế. “Khi đặt lòng tin một cách mù quáng vào chiêm tinh, bói toán, tướng mệnh… thì người ta sẽ đánh mất ý chí tự do của mình, mất hết tự chủ trong khi con người là nhân tố quyết định đời sống bản thân và đời sống xã hội, con người là chủ nhân của đời mình”.
Đó chính là những lý do Đức Phật không cho phép các đệ tử chiêm tinh, bói toán, đoán kiết hung hoặc sử dụng thần thông để cầu phước, tránh họa, bởi những việc làm đó chẳng những vô ích mà còn mang lại nhiều tác hại cho những ai tin theo.
Trong kinh Niết-bàn, Đức Phật dạy: “Lòng tin và hiểu biết phải cùng có đủ để làm cội gốc tu hành”. Mà muốn có hiểu biết thì phải học hỏi, thực hành giáo pháp, nghiên cứu kinh điển để khai thông tâm tánh, phát triển trí tuệ. Muốn có lòng tin chân chánh, đúng đắn thì phải tìm hiểu, cân nhắc, quán xét căn cứ trên cơ sở vững chắc là kinh điển, giáo pháp, các bậc đạo sư chân tu thật học và sự thể nghiệm của chính bản thân mình.