Vai trò của tu sĩ Phật giáo ở xã hội đương thời

Đứng trước những tình huống đa dạng của đời sống hiện nay, làm thế nào để đối phó với cái gọi là những làn sóng văn minh vật chất đang tấn công con người từ nhiều phương diện khác nhau? Làm thế nào để duy trì truyền thống gia đình, nhân cách và trật tự xã hội? Đề tài “Vai trò của tu sĩ Phật giáo ở xã hội đương thời” góp một cái nhìn về hình ảnh người tu sĩ Phật giáo trong thời đại mới, với những phương tiện thiện xảo trong sự tu tập và năng lực tham gia hoạt động xã hội, đong góp cho sự phát triển xã hội và Phật giáo trên nhiều phương diện trong hiện tại và tương lai.

Vai trò của tu sĩ Phật giáo trong thời đại mới

Ngoài việc xiển dương Phật pháp đến số đông, những vị tu sĩ Phật giáo với vai trò năng động tích cực nhập thế bằng những phương tiện thiện xảo, cần phải tham gia và đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa sống lành mạnh qua nhiều phương diện giáo dục, văn hóa, đạo đức, từ thiện, va xã hội vì an lạc hạnh phúc cho con người. Một quan điểm tích cực và năng động như thế được Thiền sư D.T. Suzuki diễn đạt rất thuyết phục rằng:

"Trong những ngày nay, chùa chiền Phật giáo là những trường học, bệnh viện, phòng khám bệnh, trại mồ côi, nơi nương tựa của những người già; và những vị tu sĩ là những vị giáo viên, y tá, bác sĩ, kỹ sư, người quản lý nhà trọ miễn phí, những người trồng trọt, những nhà thám hiểm ở vùng hoang dã… Khi cộng đồng đang trong giai đoạn tiến triển ban sơ, những người đệ tử Phật là những nhà lãnh đạo trong mỗi chiều hướng, và chính quyền tự nhiên khuyến khích về hoạt động của họ(4).

Cũng trong chiều hướng đó, ngài Ajahn Tiradhammo Thera đã khẳng định và bổ sung thêm:
"Một người đệ tử Phật, đối với tôi không chỉ là người nào đó đơn thuần nằm lòng những thể thức đúng đắn hoặc phải mặc đồng phục cần phải có, mà còn là người sống một đời sống hành thiện trên tinh thần đúng với lẽ phải. Đây là toàn bộ mục đích tối thượng về lời dạy của Đức Phật. Một nhà hoạt động xã hội khi ấy là người luôn sống với trí tuệ và lòng từ trong khung cảnh xã hội; học tập để chia sẻ kho tàng tâm linh vị tha với tất cả chúng sanh(5).

Hai quan điểm này không chỉ thuyết phục trọn vẹn những quan điểm khác, mà còn đủ để khẳng định vai trò tích cực và khéo léo của người tu sĩ Phật giáo ngày nay. Theo quan điểm của người viết, vai trò của người tu sĩ Phật giáo lý tưởng trong thời đại mới sẽ được biểu lộ qua hai phương diện, đó là phương diện đạo đức và xã hội. Phương diện đạo đức và trí tuệ thuộc về tự lợi, đề cập đên những nhu cầu tu tập và phát triển đạo đức cá nhân đối với người tu sĩ Phật giáo. Phương diện xã hội chính là tinh thần lợi tha liên quan đến vai trò tham gia xã hội của người tu sĩ với những phương tiện thiện xảo. Vai tro này sẽ được biểu hiện qua mỗi phong cách khác nhau như sau:

Như là một "Bhikkhu"

Thuật ngữ ‘Bhikkhu’, được dịch từ chữ Pàli với ý nghĩa người được cứu tế, người hành khất, người tu sĩ Phật giáo, hoặc vị linh mục(6); và chữ Sanskrit là ‘Bhiksu’ với nghĩa là vị ăn xin, người hành khất Phật giáo, hay là vị tu sĩ(7); Theo nguyên từ, được bắt nguồn từ gốc Sanskrit là ‘bhiks’ có nghĩa là yêu cầu, mong muốn, cầu xin điều gì,… Vì vậy, ‘Bhikkhu’ có nghĩa la người xin những nhu cầu cần thiết, đặc biệt xin người khác; hoặc nói khác, nó có nghĩa là người hành khất tôn giáo(8).

Theo quan điểm Phật giáo, Đức Phật giải thích rất ngắn gọn rằng, một Tỳ kheo được gọi chính thức với sự đầy đủ giới hạnh (Pàli: Sìla; Skt: 'Sìla’)(9) và trí tuệ (Pàli: Pannã; Skt: Prajnã)(10). Hay nói rõ hơn, là một tu sĩ chân chính khi vị ấy không những xa rời sự tham dục và những trạng thái xấu ác, mà còn thể nhập vào 4 trạng thái của thiền định (Skt: Dhyànas; Pàli: Jhànas). Người tu sĩ như thế đáng được kính trọng và được gọi là vị tu sĩ chân chính(11). Hơn nữa, vị Tỳ kheo nên làm những công việc đáng làm như sự tu tập về đức tính tàm quý, về thân-khẩu-ý hành thanh tịnh, về mạng sống thanh tịnh, sự phòng hộ các căn, sự tiết độ trong ăn uống, sự chánh niệm và tỉnh giác(12); và phải sống như hòn đảo của chính mình, hãy nương tựa chính mình, không nương tựa ai khác,… để giải thoát mọi tham dục và phiền não thông thường ở đời(13). Cuối cùng, Đức Phật kết luận lời dạy của Ngài rằng(14) một tu sĩ Phật giáo hoàn hảo được Đức Phật đề cập với 8 đặc tính:

Khi nào, này các Tỳ kheo, vị ây có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp, có sống với hội chúng, có vô úy thuyết pháp cho hội chúng, với bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, chứng được không khó khăn, chứng được không mệt moi, chứng được không phí sức, do diệt tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, với thắng trí tự mình chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; như vậy, vị ấy được đầy đủ chi phần ấy. Thành tựu 8 pháp này, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo được tịnh tín hoàn toàn và được viên mãn về mọi phương diện(15).

Noi theo quan điểm của Đức Phật, Ananda Guruge một lần nữa đã biểu lộ vai trò của người tu sĩ Phật giáo qua một lối văn phong khác rằng bổn phận của người tu sĩ có đức hạnh theo truyền thống là nghiên cứu giáo pháp, chú tâm vào những công việc hàng ngày liên quan đến sự tôn thờ Đức Phật, phát triển lĩnh vực tâm linh, vâng giữ các điều luật về phẩm hạnh và cuộc sống hoàn hảo,…Đó là những nền tảng về đời sống hoàn hảo của người tu sĩ(16).

Như là một hành giả

Với vai trò như một hành giả Phật giáo trong thời đại mới, vị ấy cần phải ứng dụng và thực hành nguyên tắc tu tập cơ bản một cách tích cực linh động, đó là sự tu tập Tam vô lậu học (the Threefold Higher Training).

Trước khi tu học Tam vô lậu, người tu sĩ trong thời đại mới nên duy trì đúng đắn tinh thần vô ngã, vô chấp, thiện xảo và khéo léo trong khi thực hành pháp và luật; cần thấu triệt nghiêm túc rằng, lời dạy của Đức Phật giống như chiếc bè đưa con người qua biển sanh tử đến bờ giải thoát. Vì thế, hành giả không nên cố chấp. Trong kinh Trung Bộ I, Đức Phật dạy: “Cũng vậy, này chư Tỳ kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt đưa qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỳ kheo, các ông cần hiểu ví dụ chiếc bè. Chánh pháp còn phải bỏ huống nữa là phi pháp”(17). Một phương diện tu tập ứng dụng thích hợp cho vị tu sĩ ngày nay chính là tiến trình tăng thượng và chuyển hóa tâm linh để đạt được an lạc hoàn toàn. Phương pháp này được Đức Phật minh họa bằng ví dụ về đại dương như sau:

"Ví như, này các Tỳ kheo, biển lớn tuần tự thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như một vực thẳm. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, trong pháp và luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể nhập chánh trí thình lình(18).

Sau khi thấu triệt tinh thần tu tập như ở trên, hành giả bắt đầu thực hành nền tảng đầu tiên bằng sự tu tập về Tam vô lậu học (the Threefold Higher Training) bao gồm Giới-Định-Tuệ:

Ngoài việc tu tập Tam vô lậu học, một hành giả Phật giáo trong thiên niên kỷ thứ ba cần nên trau dồi tích cực và ứng dụng khéo léo thêm về pháp môn Tứ nhiếp pháp và Ngũ minh(38). Tư nhiếp pháp(Four Means of Attraction - Samgraha -vastu) bao gồm bố thí (gift-giving, dàna), ái ngữ (kindly speech, piyavaca or priyavacana), lợi hành (beneficial actions, arthacaryà or atthacariyà) và đồng sự (sympathy, samanatthatà or samànàrthatà); Ngũ minh(39) (Fivefold Learning - Pancavidyà) bao gồm y phương minh (medical science, cikitsàvidya), công xảo minh (professional skillfulness, silpakarmasthànavidya), nhân minh (logic, hetuvidya), thanh minh (phonetics and languages, sabdavidya), nội minh (Buddhist studies, adhyàtmavidya); các bộ môn khoa học hiện đại liên hệ đến Phật giáo (như là: các tôn giáo thế giới, khoa học xã hội, thông tin và những phương tiện liên lạc và mạng lưới Internet hiện đại…) để phục vụ cho công việc hoằng pháp vì lợi ích và an lạc hạnh phúc cho tất cả chúng sanh, cho cuộc sống nhân loại và cho xã hội ngày nay.

Như là nhà truyền giáo

Theo quan điểm của người viết, vai trò tham gia xã hội và hoằng pháp độ sanh của một nhà truyền bá Phật giáo trong thời hiện đại được gói gọn trong hai phương diện, đó là: (1) truyền thừa Phật pháp tùy theo căn cơ của thính giả, và (2) tham gia xã hội dựa trên tinh thần tùy duyên bất biến:

1. Truyền thừa Phật pháp tùy theo căn cơ của thính giả

Đối với một nhà truyền bá Phật giáo, Đức Phật xác định rõ ràng rằng nếu Tỳ kheo thuyết pháp và thực hành pháp yếm ly, ly tham, đoạn diệt già và chết, như vậy đủ để được gọi là Tỳ kheo thuyết pháp(40). Mặt khác, trong khi thuyết pháp, người truyền giáo chỉ nói lời khéo nói, không nói lời vụng nói; chỉ nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp; chỉ nói lời khả ái, không nói lời phi khả ái; chỉ nói lời đúng sự thật, không nói lời không đúng sự thật(41). Hơn nữa, người truyền giáo khuyến khích những người khác không chỉ tu tập và nói phù hợp với lễ giáo, mà còn đưa ra những quan điểm hợp theo Chánh pháp. Quan điểm này được Đức Phật răn dạy vị Tỳ kheo nên thành tựu ba pháp: (1) khuyến khích các thân nghiệp tùy thuận, (2) khuyến khích các ngữ nghiệp tùy thuận, và (3) khuyến khích các ý nghiệp tùy thuận. Thành tựu ba pháp này, một vị Tỳ kheo có danh tiếng, sống đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người(42). Đặc biệt, Đức Phật nhấn mạnh về phẩm chất của vị truyền giáo rằng "Một nhà truyền giáo cần phải liễu giải nghĩa và liễu giải pháp, và người nghe pháp cũng vậy. Cả người dạy và người nghe đều phải liễu giải nghĩa và pháp. Đó là ba phẩm chất làm nền tảng đối với người giảng dạy giáo pháp cho người khác(43).

Ngày nay, một nhà truyền bá Phật giáo khi muốn hoằng pháp theo căn cơ của thính giả, cần phải thông thạo về tâm lý học và xã hội học. Vì sao? Vì tâm lý học sẽ giúp vị ấy hiểu rõ vê những đặc tính tư tưởng của con người và bản chất tâm lý của mỗi cá nhân trong xã hội ngõ hầu vận dụng giáo lý thích hợp tùy vào trình độ căn cơ của thính giả. Xã hội học sẽ giúp vị ấy hiểu được những mối quan hệ giưa con người sống trong quần thể, đặc biệt là trong xã hội công nghiệp. Từ đó, khi hoằng pháp, vị ấy có thể ứng xử đúng mức đối với nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Chúng ta có thể đưa ra vài ví dụ thực tế và tiêu biểu rằng khi thuyết giáo cho những thính giả có tính khí năng động, sáng tạo và thẳng thắn, một nhà truyền bá Phật giáo sẽ thuyết giáo với lời nói năng động, sáng tạo và thẳng thắn; với người có bản tính lịch thiệp và phóng khoáng, vị ấy sẽ thuyết giảng với lời nói lịch sự và cởi mở; với người khó tính và ít nói, vị ấy sẽ dùng lời nói súc tích và hợp lý; với những đối tượng lãng mạn và dễ xúc cảm, vị ấy sẽ cư xử một cách nhẹ nhàng, tử tế và văn hoa; với người trí thức, vị ấy sẽ dùng lời nói trí thức và gia giáo; hoặc với những người thuộc nhiều tầng lớp khác nhau như bác sĩ, kỹ sư, công nhân, nhân viên, quan chức, nhà khoa học, nhà triết học, nha tâm lý, sinh viên, học giả, thi sĩ, nhà văn,… lời thuyết giảng của vị ấy sẽ tương xứng với kiến thức, nghề nghiệp và vị trí của họ trong xã hội. Với một lối thuyết giảng năng động bằng những phương tiện thiện xảo, khéo leo như thế, người truyền bá Phật giáo không những sẽ thành công trong vai trò và nhiệm vụ tôn giáo, mà còn thích hợp cả trình độ căn cơ của mọi giai tầng trong xã hội, đem lại lợi lạc rất lớn cho nhiều người.

2. Tham gia xã hội dựa trên tinh thần tùy duyên bất biến

Từ thực tiễn xã hội ngày nay đặt ra vấn nạn: muốn làm vơi đi nỗi khổ về tinh thần của con người và sự khủng hoảng về nhiều giá trị trong xã hội hiện nay, một nhà truyền bá Phật giáo trong thời đại mới cần phải làm gì và bằng cách nào để thực hiện vai trò tham gia xã hội của mình?

Trở về thời của Đức Phật, bản thân Ngài, với vai trò là một vị Đạo sư cũng như một nhà truyền bá với những phương tiện thiện xảo phục vụ xã hội trong suốt 45 năm, Ngài chưa từng ruồng bỏ xã hội; ngược lại, chính Ngài lại tham gia nhiều lĩnh vực: chính trị, xã hội, văn hóa khác nhau nhưng đều lưu xuất từ mục đích duy nhất ‘vì an lạc hanh phúc số đông, vì lòng thương tưởng cho đời, vì sự lợi ích, an lạc, hạnh phúc cho chư Thiên và loài người’. Ngài không chỉ hướng dẫn các hàng vua chúa làm thế nào mang lại cuộc sống sung túc và hạnh phúc cho bá tánh; mà con khuyến khích và chỉ dạy con người làm thế nào để biểu hiện những phong cách và thái độ tốt đẹp với nhau trong lề lối đạo đức đúng đắn, đặc biệt trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, chồng và vợ, chủ và tớ, và bạn bè với nhau…(44).

Bước vào ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ ba, một nhà truyền bá Phật giáo của thế hệ trẻ hậu tấn, ngoài việc noi gương tham gia xã hội khéo léo của Đức Phật và chư vị tiền bối lỗi lạc Phật giáo, cần thể hiện tích cực vai trò thiết thực của mình qua hai phương diện chủ yếu: xã hội và kinh tế với những phương tiện thiện xảo như sau:

a) Phương diện xã hội

Đối diện với những vấn đề khủng hoảng xã hội hiện nay như: môi trường sinh thái, bệnh dịch HIV/AIDS, bệnh đồng tính luyến ái, nạn mại dâm, chiến tranh, bạo động và khủng bố, tình yêu, tình dục và hôn nhân…; một nhà truyền bá Phật giáo không những cần nắm bắt thấu đáo về các tình huống xã hội và tính khí con người hiện nay, mà còn phải khéo léo thực hiện, làm thế nào để giảm bớt nỗi khổ đau và khủng hoảng xã hội. Ở đây, chúng ta sẽ nghiên cứu và thảo luận vài trường hợp tiêu biểu liên quan sau đây:

Với môi trường sinh thái, đặc biệt những thảm họa về ô nhiễm không khí, một nhà truyền bá Phật giáo một mặt giải thích súc tích và hợp lý cho con người về giá trị và tầm quan trọng thực tế môi trường sinh thái; khuyến khích họ biết tôn trọng, bảo vệ và duy trì mạng sống của nhân loại, các loài thực vật, động vật và thiên nhiên; và mặt khác kết hợp với họ trồng cây gây rừng, tôn trọng, bảo vệ tất cả các loài thực vật và động vật, giữ gìn không khí và nguồn nước trong sạch và không ô nhiễm,… Một hành động khéo léo như thế sẽ làm giảm bớt sự đau khổ tinh thần cho con người và sự khủng hoảng môi trường sinh thái.

Với bệnh dịch HIV/AIDS(45), người truyền giáo lý tưởng trước hết cần thấu hiểu rõ ràng về ý nghĩa và nguyên nhân bệnh dịch HIV/AIDS. Kế đến, vị ấy kết hợp với những đoàn thể xã hội thành lập và tham gia vào việc tuyên truyền cho mọi người về cách ngăn ngừa bệnh dịch HIV/AIDS; theo dõi chăm sóc thuốc men kỹ lưỡng, chăm sóc những bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS ở giai đoạn cuối; ủng hộ những bệnh nhân mới bị nhiễm HIV/AIDS bằng cách đào tạo hướng nghiệp, khuyên nhủ họ theo tâm lý, hướng dẫn phương pháp thiền định của Phật giáo một cách có hiệu quả và có lợi, tạo ra những thú tiêu khiển lành mạnh và các môn thể thao ưa thích,… hầu làm cho họ tăng thêm sức đề kháng mạnh mẽ và có những niềm vui về phương diện tinh thân(46). Việc làm như thế không chỉ làm giảm đi bệnh dịch HIV/AIDS mà còn góp phần ngăn ngừa những tai họa cho xã hội.

Về vấn đề chiến tranh, bạo động và khủng bố, người truyền bá Phật giáo đầu tiên trao đổi với họ bằng nhưng lời giải thích đầy thuyết phục và những bằng chứng thực tế về những thiệt hại trầm trọng cho con người và xã hội từ những hành vi chiến tranh, bạo động và khủng bố; sau đó khuyến khích và hướng dẫn họ một cách kheo léo thực hành tinh thần bất bạo động của Phật giáo (non-violence - ahimsà) bằng cách tu tập lòng từ và sự đồng cảm vì hòa bình, hạnh phúc và an lạc thật sự cho mình và cho tất cả chúng sanh. Thật sự, chính việc thực hanh bất bạo động này không những hàn gắn lại vết thương chiến tranh, xung đột và bạo động cũng như làm giảm đi tất cả những tai họa cho con người và xã hội; mà còn xây dựng một xã hội hòa bình và lành mạnh, cũng như thăt chặt nguyên tắc quý trọng về sự bình đẳng, hữu nghị và tự do. 

Tình dục, tình yêu và hôn nhân là ba vấn đề quan trọng và cần thiết đối với cuộc sống chúng sanh nói chung và con người nói riêng, đặc biệt về cuộc sống hôn nhân; ngược lại, ba điểm này cũng có thể làm cho con người đau khổ và bất hạnh trong nhiều phương diện trừ khi họ thấu triệt hoàn toàn và thực hiện đúng đắn những vấn đề này với một thái độ tử tế và lịch thiệp. Trong tình huống này, một nhà truyền bá Phật giáo cần dùng những lời khuyên chân thành cho đôi vợ chồng mới cưới bằng cách hướng dẫn họ làm thế nào để cư xử, tôn trọng, thông cảm, và có trách nhiệm với nhau theo năm cách mà Đức Phật đã chỉ dạy trong kinh Trường Bô(50); làm thế nào tiết độ tình dục một cách hợp lý hầu làm cho thân và tâm dễ chịu, hoặc sức khoẻ và tinh thần tráng kiện…; làm thế nào chia sẻ và xây dựng cho nhau những lỗi lầm để trở thành con người hoàn hảo; … cuộc hôn nhân đầy ý nghĩa như thế gọi là cuộc hôn nhân hạnh phúc hoàn mỹ.

b) Phương diện kinh tế

Song song với phương diện xã hội, kinh tế cũng đóng một phần then chốt trong vai trò của nhà truyền bá Phật giáo. Thông thường, hầu hết cuộc sống tu hành tôn giáo của các vị tu sĩ Phật giáo được duy trì vững chắc nhờ vào sự ủng hộ và cúng dường vật chất của các vị Phật tử với bốn nhu cầu cần thiết của một tu sĩ như: quần áo, thức ăn, nệm lót và thuốc men. Mặt khác, đời sống tu sĩ tùy thuộc vào việc khất thực từ sự cúng dường của những tín đồ Phật tử. Vì vậy, cuộc sống lâu dài của họ sẽ không được duy trì trừ khi có sự ủng hộ và cúng dường của những tín đồ Phật tử, thậm chí bản thân họ tùy thuộc vào nhiều phương diện cuộc sống, đặc biệt trong sự giao thiệp và cư xử.

Ngày nay, một nhà truyền bá Phật giáo một mặt nên giảm bớt việc tùy thuôc vào sự khất thực từ các tín đồ Phật tử và mặt khác nên tự làm kinh tế để duy trì đời sống tôn giáo của mình với nhiều phương thức khác nhau: trồng trọt rau quả; cày ruộng trồng lúa; làm đậu hủ, sữa đậu nành và bột mì;… làm nhang; ấn hành kinh sách Phật giáo; làm các vật phẩm cho việc thờ phượng và thậm chí mở công ty, xí nghiệp, trường học… Những hoạt động kinh tế khéo léo như thế không chỉ cung cấp điều kiện vật chất cho nhà truyền bá Phật giáo thực hiện thành công vai trò tích cực của mình trong xã hội hiện đại, mà còn tạo ra cho vị ấy có đủ tài sản để duy trì cuộc sống tôn giáo lâu dài và vững chắc.

3. Tóm tắt

Nhìn chung, qua những điểm tích cực được đề cập ở phần trên, chúng ta nhận thấy giá trị của một tu sĩ Phật giáo lý tưởng ở thiên niên kỷ thứ ba được biểu hiện qua hai phương diện đạo đức và xã hội. Phương diện đạo đức thuộc về ý nghĩa ‘tự lợi’ đề cập vê những yêu cầu tu tập và phát triển đạo đức cá nhân của một tu sĩ Phật giáo lý tưởng (vai trò như là một Bhikkhu, một hành giả). Phương diện xã hội chính là tinh thần ‘lợi tha’ liên quan đến vai trò tham gia xã hội của một tu sĩ lý tưởng vời những phương tiện thiện xảo (vai trò như là một nhà truyền bá). Dựa trên hai phương diện này, vị ấy có khả năng thực hiện khéo léo vai trò tôn giáo của mình về sự tu tập và truyền bá Phật pháp cho số đông, có khả năng ứng dụng giáo pháp một cách linh hoạt và sáng tạo vào việc tham gia xã hội vì an lạc và hạnh phúc cho con người. Hình ảnh một vị tu sĩ Phật giáo lý tưởng như thế không chỉ mở ra một đạo lộ mới cho thế hệ trẻ tu sĩ Phật giáo ở tương lai trong vai trò và nhiệm vụ tôn giáo thích hợp với quan điểm Phật giáo ngày nay, mà còn đóng góp cho sự nghiệp phát triển đạo đức và giáo dục con người trong bất kỳ tình huống xã hội nào trong thiên niên kỷ thứ ba.     


[1] Bài tham luận của P.A. Payutto, Buddhist Solutions for the 21st Century (Các giải pháp của Phật giáo đối với thế kỷ XXI), đọc tại Nghị viện Tôn giáo thế giới ở Chicago, 1994, có giá trị tại trang web: www.buddhismtoday.com/index/ sociology.htm.
[2] Như trên, có giá trị tại trang Web:
www.buddhismtoday.com/index/sociology.htm
[3] Bài diễn văn của ngài His Holiness The XIV Dalai Lama of Tibet, Human Rights and Universal Responsibility (Nhân quyền và Trách nhiệm toàn cầu), June 15, 1993, đọc tại Hội thảo Quốc tế Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền ở Vienna-Úc, có giá trị tại trang web
www.buddhismtoday.com/index/sociology.htm
[4] D.T. Suzuki, Essay in Zen Buddhism, quyển III, New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 2000, trang 369.
[5] Trích từ ‘Lời tựa của Venerable Ajahn Tiradhammo Thera’, trong Ken Jones, The Social Face of Buddhism: An Approach to Political and Social Activism, London: Wisdom Publication, 1989, trang 16.
[6] T. W. Rhys Davids & William Stede (ed.), Pàli-English Dictionary, 1997: 504
[7] M. Monier-Williams (ed.), Sanskrit-English Dictionary, 1999: 756.
[8] A.G.S. Kariyawasam, ‘Bhikkhu’ (Tỳ Kheo), trong G.P. Malalasekera (ed.), The Encyclopaedia of Buddhism, quyển III, 1999: 36; John C. Holt, ‘Buddhist Priesthood’ (Tăng lữ Phật Giáo), trong Mircea Eliade (ed.), The Encyclopaedia of Religion, quyển 11, 1987: 542. Xem thêm trang 542ff.
[9] Kinh Trường Bộ I.222f. Xem thêm ‘Sìla’(giới) trang 15ff-122ff; A.K. Warder, Indian Buddhism, 2000: 173.
[10] Kinh Trường Bộ I.222f. Xem thêm ‘Wisdom’ trang 154f; M. Anesaki, ‘Ethics and Morality’, trong Subodh Kapoor (ed.), The Buddhists Encyclopaedia of Buddhism, quyển II, 2001: 525ff.
[11] Kinh Tăng Chi Bộ I.292ff.
[12] Kinh Trung Bộ I.593ff.
[13] Kinh Trường Bộ I.184f; II.353f-382f. Xem thêm Kinh Tương Ưng Bộ III.83 & V.240f.
[14] Kinh Tương Ưng Bộ II.38f.
[15] Kinh Tăng Chi Bộ IV.10f.
[16] Ananda Guruge (ed.), Return to Righteousness, 1991: 223.
[17] Kinh Trung Bộ I.307f. Xem thêm ‘Ẩn dụ chiếc bè’ trong Mahathera Piyadassi, The Spectrum of Buddhism: Writings of Piyadassi, 1991: 225f; Paul Williams, Buddhist Thought: A Complete Introduction to the Indian Tradition, 2000: 38ff; Rupert Gethin, The Foundations of Buddhism, 1998: 71f.
[18] Kinh Tiểu Bộ I.214f; Walpola Rahula, What the Buddha Taught, 1996: 45ff.
[38] Xem thêm trong kinh Trường Bộ II .546f; Alan Senauke, ‘The Bodhisattva’s Four Methods for Steering Any Vehicle’, trong Sulak Sivaraksa (Hon.ed.), Socially Engaged Buddhism for the New Millennium, Bangkok: Sathirakoses–Nagapradipa Foundation & Foundation For Children, 1999: 114ff.
[39] Xem thêm trong Kim Cương Tư (chủ biên), Từ điển Phật học Hán-Việt, quyển I, 1992: 915f; Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, quyển II, 1997: 401f.
[40] Kinh Tương Ưng Bộ II.38f. Xem thêm trong kinh Tương Ưng Bộ IV.234f.
[41] Kinh Tiểu Bộ I.605f; Kinh Tương Ưng Bộ I.415
[42] Kinh Tăng Chi Bộ I.188f.
[43] Kinh Tăng Chi Bộ I.269.
[44] Kinh Trường Bộ II.541ff; như trên, The Buddha and His Teachings: 348ff; như trên, The Triple Gem: An Introduction to Buddhism: 159ff; như trên, An Introduction to Buddhism: Teachings, History and Practices: 213f; như trên, Indian Buddhism: 178f; Hema Goonatilake, ‘Women and Family in Buddhism’, trong Sulak Sivaraksa & et.al (ed.), Buddhist Perception for Desirable Societies in the Future, 1993: 227f; như trên, Buddhist Ethics: 97ff; như trên, Buddhism: Beliefs and Practices in Sri Lanka: 132f; như trên, What the Buddha Taught: 78ff-119ff.
[45] Xem thêm ‘HIV Infection and AID’ trong Bruce M. King, Human Sexuality Today, 2002: 114ff.
[46] Như sách đã dẫn ở trên, trang 120ff-123ff.
[50] Xem thêm trong kinh Trường Bộ II.543; như trên, The Buddha and His Teachings: 349; như trên, The Triple Gem: An Introduction to Buddhism: 161f; như trên, An Introduction to Buddhism: Teachings, History and Practices: 214; như trên, Indian Buddhism: 179f; Hema Goonatilake, ‘Women and Family in Buddhism’, như trên, Buddhist Perception for Desirable Societies in the Future: 228; như trên, Buddhist Ethics: 99ff; như trên, Buddhism: Beliefs and Practices in Sri Lanka: 132; như trên, What the Buddha Taught: 79-123.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.