"Một thời Phật du hóa tại Bệ-xá-li, trong Đại lâm. Bấy giờ Trưởng giả Úc-già, chỉ có một số phụ nữ theo hầu hạ và ông đang ở trước các phụ nữ ấy, từ Bệ-xá-li ra đi. Ở khoảng giữa Đại lâm và Bệ-xá-li, chỉ để hoan lạc với các kỹ nữ, như vị quốc vương.
Rồi thì, Trưởng giả Úc-già, uống rượu say túy lúy, bỏ các phụ nữ kia ở lại đó, đi vào trong Đại lâm. Đang lúc Trưởng giả Úc-già say rượu lúy túy, từ đàng xa trông thấy Đức Thế Tôn ở giữa rừng cây, đoan chánh đẹp đẽ như vầng trăng giữa đám sao, ánh sáng chói lọi rực rỡ, ánh sáng như tòa núi vàng, đầy đủ tướng tốt, oai thần nguy nga, các căn tịch tĩnh, không bị ngăn che, thành tựu sự điều ngự, tâm vắng lặng tịch mặc. Trưởng giả thấy Đức Phật rồi, lập tức tỉnh rượu. Sau khi tỉnh rượu, Trưởng giả Úc-già liền đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết pháp cho ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho ông, khuyến giáo, khích lệ, làm cho hoan hỷ rồi, như thông lệ của chư Phật, trước hết nói về pháp đoan chánh cho người nghe hoan duyệt; tức là nói về thí, về giới, nói pháp sanh thiên, chê bai dục là tai hoạn, sanh tử là ô uế, khen ngợi vô dục là vi diệu, đạo phẩm thanh tịnh trong trắng.
Sau khi Đức Thế Tôn nói những pháp ấy cho ông rồi, ngài biết ông có tâm hoan hỷ, tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến, tâm nhẫn nại, tâm thăng tấn, tâm chuyên nhất, tâm không nghi, tâm không bị che lấp, có khả năng, có sức mạnh, có thể kham thọ Chánh pháp. Rồi như thông lệ của chư Phật, Ngài nói về pháp yếu chân chánh, Đức Thế Tôn thuyết cho ông nghe về Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Lúc ấy Trưởng giả Úc-già, ngay trên chỗ ngồi, thấy được bốn Thánh đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng như vải trắng dễ nhuộm thành màu. Trưởng giả Úc-già, cũng giống như vậy, ngay nơi chỗ ngồi thấy được bốn Thánh đế, là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Rồi thì, Trưởng giả Úc-già thấy pháp và đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi, vượt qua hoặc, không còn tôn sùng ai khác, không còn theo ai khác, không còn do dự, đã trụ nơi quả chứng, được vô sở úy đối với giáo pháp của Thế Tôn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, con nay tự thân xin quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo, cúi mong Đức Thế Tôn chấp nhận cho con làm Ưu-bà-tắc; bắt đầu từ hôm nay trọn đời, xin tự quy y cho đến mạng chung. Bạch Thế Tôn, từ ngày hôm nay, con xin theo Đức Thế Tôn, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, thọ trì năm giới”.
(Kinh Trung A-hàm, phẩm Vị tằng hữu pháp, kinh Úc-già trưởng giả, số 38 [trích])
Chuyện của Trưởng giả Úc-già (Ugga) kể cũng lạ. Đang say sưa với rượu nồng và hưởng lạc cùng mỹ nữ trong khu rừng như một ông hoàng thì đột nhiên Trưởng giả từ bỏ họ rồi đi đến chỗ Đức Phật. Gặp Đức Phật ông liền tỉnh rượu, đảnh lễ Phật và phát tâm nghe pháp. Nghe xong liền “thấy pháp và đắc pháp”, kinh văn cho biết, Trưởng giả lần lượt chứng đắc từ Sơ quả Tu-đà-hoàn cho đến Tam quả A-na-hàm, dứt sạch ái dục.
Từ một người phàm hưởng thụ các lạc thú thế gian, bất chợt Trưởng giả muốn tầm sư học đạo và được nghe pháp rồi liền đắc đạo đến Tam quả. Nên “mê nhất kiếp, ngộ nhất thời” là chuyện có thật. Nhờ hội đủ duyên lành được gặp Phật, được nghe Chánh pháp, quan trọng là nhân duyên đắc quả của Trưởng giả đã chín muồi. Trưởng giả Úc-già là một trong những người có nhân duyên hy hữu: Gặp Phật, nghe Chánh pháp, đắc Thánh quả rồi mới phát tâm quy y Tam bảo, thọ trì năm giới.
Thế nên, đến với đạo sớm hay muộn là nhân duyên, đi trước chưa chắc là sẽ đến trước và đi sau cũng chưa hẳn sẽ về sau. Một người phàm thì không biết được nhân duyên nên cẩn trọng, chớ xem thường người đi sau, kể cả người chưa vào đạo. Bởi khi đã hội đủ nhân duyên thì hiểu, tu và chứng đạo quả sẽ rất gần.