Chư tôn giáo phẩm nhất tâm tưởng niệm |
Dâng hương tưởng niệm có Trưởng lão Hòa thượng Thich Giác Quang, Phó Pháp Chủ GHPGVN; Trưởng lão Hòa thượng Thích Đức Thanh, Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh; Trưởng lão Hòa thượng Thích Lưu Hòa, Thành viên Hội đồng Chứng minh; chư tôn đức giáo phẩm Chứng minh GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế; chư tôn đức Ban Thường trực Ban Trị sự tỉnh cùng chư Tăng Ni các tổ đình, tự viện và Phật tử.
Tại tổ đường, Trưởng lão Hòa thượng Thích Lưu Hòa niêm hương tưởng niệm. Tiếp đó, lễ cúng ngọ được cử hành theo nghi thức thiền môn cố đô Huế.
Trưởng lão Hòa thượng Thích Lưu Hòa niêm hương tưởng niệm |
Hòa thượng Thích Mật Nguyện thế danh là Trần Quốc Lộc, pháp danh Tâm Như, pháp hiệu Mật Nguyện, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 43, sinh năm 1911 (Tân Hợi) tại làng Phú Xuân, H.Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên.
Vốn sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, thành tín Phật giáo, năm 15 tuổi (1926), ngài phát tâm xuất gia, thọ giới với Hòa thượng Giác Tiên ở chùa Trúc Lâm. Nhờ chuyên tâm và kiên trì tu niệm, năm 18 tuổi (1929), ngài được bổn sư chính thế độ thọ Sa-di giới lúc 18 tuổi và ban pháp danh Tâm Như.
Sau một thời gian theo học tại Trường Sơn môn Phật học Tây Thiên, ngài đã tốt nghiệp Trung học Phật giáo. Năm 26 tuổi (1937), được sự cho phép của bổn sư, Hòa thượng thọ giới Cụ túc tại Đại giới đàn Tịnh Lâm (Bình Định) và ở lại theo học cấp Đại học Phật giáo với Đại lão Hòa thượng Phước Huệ tại chùa Thập Tháp.
Hòa thượng Thích Phước Minh, sám chủ lễ cúng ngọ |
Khi còn tu học ở Huế, vào năm 1932, Hội An Nam Phật học thành lập tại chùa Trúc Lâm, Hòa thượng được cử làm giảng sư của hội. Năm 1935, do đạo nghiệp tăng trưởng, Hòa thượng được bổn sư truyền kệ phú pháp:
Tâm như pháp giới như
Vô sanh hạnh đẳng từ
Nhược năng như thị giải
Niệm niệm chứng vô dư
Năm 1946, Hòa thượng khai sơn chùa Bảo Tràng Huệ Giác tại Hòa Tân, Bình Định. Cũng trong năm này, Hòa thượng được sơn môn cung thỉnh trú trì chùa Linh Quang. Đầu năm 1951, Hòa thượng đảm trách chức vụ Chánh Trị sự Sơn môn Tăng-già Thừa Thiên; năm 1954, Hòa thượng đảm nhận trọng trách Trị sự trưởng Sơn môn Tăng-già Trung Việt liên tiếp trong nhiều nhiệm kỳ.
Năm 1957, với ý nguyện phát triển cơ sở để dìu dắt hàng Phật tử về với đạo pháp, Hòa thượng khai sáng chùa Từ Hàng Quan Âm tại Huế. Ngày 10-9-1959, Đại hội Giáo hội Tăng-già toàn quốc kỳ II tại chùa Ấn Quang ở Sài Gòn đã công cử Hòa thượng giữ chức vụ Trị sự phó Giáo hội kiêm Trưởng ban Nghi lễ.
Lễ cúng ngọ tại chánh điện chùa Linh Quang |
Năm 1963, Hòa thượng đã lãnh đạo Phật giáo đồ Thừa Thiên Huế đấu tranh đòi thực thi năm nguyện vọng chính đáng của Phật giáo Việt Nam. Trong đêm 20-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm xua quân tấn công các chùa, đàn áp Tăng Ni, Phật tử, Hòa thượng bị bắt và áp chuyển vào Sài Gòn.
Năm 1964, GHPGVN Thống Nhất ra đời, Hòa thượng được mời giữ chức Phó Đại diện miền Vạn Hạnh kiêm Giáo hội tỉnh Thừa Thiên. Năm 1965, ngài làm đàn chủ trong Đại giới đàn Vạn Hạnh tổ chức tại chùa Từ Hiếu với trên 100 vị giới tử xuất gia và 1.200 vị tại gia.
Mùa xuân 1968, Hòa thượng được GHPGVN Thống Nhất công cử vào chức vụ Chánh Đại diện miền Vạn Hạnh kiêm Chánh Đại diện tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế.
Năm 1970, Hòa thượng khuyến khích mở lớp chuyên khoa nội điển tại Phật học Ni viện Diệu Đức. Cũng năm ấy, Hòa thượng nhận làm cố vấn Đại giới đàn Vĩnh Gia tại Đà Nẵng.
Hòa thượng Thích Khế Chơn, pháp tử của cố Hòa thượng |
Hòa thượng còn kiến thiết cô nhi viện, dưỡng lão đường, bệnh xá để có nơi an trú và thuốc men cho những đồng bào không may gặp cảnh khó khăn; khuyến khích xây dựng những niệm Phật đường tại các bệnh viện, lao xá, các trại tàn tật, các đơn vị quân đội để Phật tử có thể thường xuyên tụng niệm và lễ bái. Hòa thượng đặc biệt lo việc cứu trợ chiến nạn và thiên tai, khuyến khích các nhà thiện nguyện tạc tượng, đúc chuông, ấn tống kinh sách và lưu động đến các vùng xa xôi mở các buổi thuyết giảng giáo lý.
Ngoài ra, Hòa thượng còn để tâm viết bài đăng trên các nguyệt san tạp chí Phật giáo xuất bản tại Huế như Viên Âm, Giác Ngộ, Liên Hoa,... và dịch các kinh tạng như kinh Giải thâm mật, kinh Vô lượng thọ, Tân Duy thức luận (của Thái Hư).
Long vị cố Hòa thượng tại tổ đường chùa Linh Quang |
Vì lao tâm lao lực lo toan Phật sự, nên vào cuối đời, Hòa thượng lâm bệnh, có thời gian phải vào Sài Gòn điều trị. Tuy vậy Hòa thượng vẫn luôn luôn nghĩ đến Giáo hội và Phật tử, xem nhẹ thân mình nên đã tạm gác việc chữa bệnh và trở về cố đô tiếp tục Phật sự.
Đến ngày 10-7-Nhâm Tý (1972), vào lúc 9 giờ 30 phút, Hòa thượng đã an nhiên viên tịch, trụ thế 62 năm, 35 hạ lạp.
Suốt cuộc đời hành đạo, Hòa thượng đã thế độ nhiều vị đệ tử xuất gia và tại gia, có nhiều vị hiện đang giữ những trọng trách của Giáo hội như: Hòa thượng Thích Tánh Tịnh, Giáo phẩm Chứng minh Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế; Hòa thượng Thích Tánh Nhiếp, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Bình; Hòa thượng Thích Khế Chơn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế.