Thư gởi thầy Giác Dũng

LTS:Trong lộ trình kiện toàn tri thức, lẽ dĩ nhiên vẫn tồn tại nhiều nhận thức khác nhau cùng xoay quanh về một sự vật, hiện tượng. Nhân vật Đại Thiên có thể xem là một hiện tượng trong lịch sử Phật giáo của cả hai truyền thống và đã được nghiên cứu, lý giải dưới nhiều giác độ khác nhau. Một trong những tác phẩm tạo nên sự chú ý của giới nghiên cứu Phật học là tác phẩm “Nghiên cứu về năm việc của Đại Thiên” của tác giả Thích Hạnh Bình. Kể từ số 141, NSGN đã khởi đăng bài viết của ĐĐ.Giác Dũng phê bình về tác phẩm này. Và, để rộng đường dư luận, NSGN xin đăng ý kiến phản hồi của tác giả Hạnh Bình, thể hiện qua lá thư dưới đây.

Tôi, Thích Hạnh Bình, là tác giả quyển sách Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên (NC5VĐT), xin có một vài lời chia sẻ cùng thầy.Cách đây hơn 1 năm, tôi nhận được quyển sách (dạng lưu hành nội bộ, chưa xuất bản) với chủ đề: "Nhận định tác phẩm Nghiên cứu về năm việc của Đại Thiên” của Sư Chánh Minh, sách khổ A5, dày khoảng 100 trang, tôi đã photo và hiện còn giữ nó ở Việt Nam.Vì một vài lý do, tôi đã không trả lời cũng như không để tâm vào tác phẩm này nữa, mặc dù có nhiều người muốn tôi viết bài phúc đáp.

Hôm nay, tôi lại nhận được bài thứ 2, không phải của tác giả Chánh Minh mà là bài của thầy Giác Dũng, với tựa đề: “Đại Thiên là ai?”, được đăng tải trên nguyệt san Giác Ngộ số 141 và 142. Rất tiếc tôi chưa có số báo này (tác giả hiện ở Đài Loan - GN) nên phải căn cứ vào bản thảo để thưa chuyện cùng thầy Giác Dũng.

1. Lời cảm ơn

Trước hết, tôi chân thành cảm ơn thầy đã bỏ thời giờ quý báu để đọc tác phẩm Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên. Không dừng lại ở đó, thầy còn tìm tư liệu, qua 3 nguồn Pàli, Hán dịch và Tây Tạng, lại bỏ công dịch sang Việt văn, (những đoạn có liên quan đến chủ đề mà chúng ta đang thảo luận), đây là việc làm hết sức cần thiết cho một người làm công việc nghiên cứu. Đối với tôi, đó là những cơ sở để chúng ta thảo luận, nó không những mang tính gợi ý cho tôi xem lại công trình nghiên cứu của mình, mà còn là sự gợi ý hết sức cơ bản và hữu ích cho giới nghiên cứu khoa học.

2. Những đóng góp tích cực

Qua thực tế, thầy đã chỉ ra lời phát biểu sai lầm của tác giả trong tác phẩm này, cụ thể là đoạn: “Nhưng ở đây có một vấn đề mà chúng ta không thể đề cập là các nhà nghiên cứu Phật học đều cho rằng, Kinh A Hàm và Nikàya thuộc về Thượng tọa bộ” (trang 13). Vì "Kinh Tăng Nhất A Hàm” là bản kinh của Đại chúng bộ, do vậy không thể nói, nó là của Thượng tọa bộ. Tôi hoàn toàn đồng ý lời góp ý của thầy và tôi hứa sẽ sửa chữa trong lần tái bản.

3. Lời phê bình về cách nhận định tư liệu của tác giả

Thầy Giác Dũng trích dẫn nguyên văn trong tác phẩm NC5VĐT:

“9 bộ phái này, tất nhiên mỗi phái đều có lập trường và quan điểm đặc thù của riêng mình, nhưng với nguồn tư liệu hiện có trong Phật giáo, đề cập đến quan điểm tư tưởng của 9 bộ phái này thật là hiếm hoi, có thể nói là không có” (trích từ NC5VĐT, trang 147).
 Từ đó dẫn đến lời phê bình:

Một lần nữa, tác giả của Nghiên cứu đã tỏ ra quá ư cẩu thả và lười biếng trong nghiên cứu. Kinh Tăng nhứt a hàm, Ma ha tăng kỳ luật rõ ràng thuộc Đại chúng bộ. Tại sao lại nói là không có? Chẳng lẽ trong hai tác phẩm đồ sộ thế kia lại không tìm ra được tư tưởng của Đại chúng bộ?”.

Thật ra, đoạn trên được trình bày trong Chương V của tác phẩm NC5VĐT, với tựa đề “Từ tư tưởng của Đại Thiên đến tư tưởng của các phái trong Đại chúng bộ”. Với tựa đề này, tác giả (HB) xem bản kinh Tăng Nhất A Hàm cũng như Ma ha tăng kỳ luật là kinh và luật của Phật, quan điểm trong kinh trong luật đó là quan điểm của Phật, dù nó được kiết tập thành văn tự trước hay sau sự việc xảy ra 5 việc của Đại Thiên, do đó dĩ nhiên không thể có sự kiện vì 5 việc của Đại Thiên mà được Đức Phật giải thích trong kinh hay trong luật này. Nêu có thể xảy ra, thì nó chỉ mang ý nghĩa, các bộ phái của Đại chúng bộ căn cứ quan điểm trong kinh trong luật này để lý giải cho quan điểm của bộ phái mình mà thôi. Từ quan điểm này mà tác giả viết ra lời nhận định như thây đã trích dẫn trên. Lại nữa, cho đến nay tác giả vẫn chưa tìm được một luận nào của các bộ phái Đại chúng chuyên lý giải vấn đề 5 việc. Nếu thầy có tư liệu nào xin cho biết?

4. Lời phê bình của Thầy Giác Dũng mang tính nội tại mâu thuẫn

Ở trang 2, thầy Giác Dũng phê bình:

Tuy nêu ra như vậy nhưng trên thực tế, trong tác phẩm nghiên cứu của mình, tác giả chỉ tập trung lý luận Năm việc chứ hoàn toàn không đề cập tới văn bản, không xử lý văn ban”.

Thế nhưng ở trang 3, thầy Giác Dũng lại viết:

Trong tác phẩm nghiên cứu (tức Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên), sau khi giới thiệu sơ qua bốn bản dịch, tác giả ghi : “Tuy rằng dịch giả khác nhau, nhưng với nội dung không khác nhau mấy, chỉ khác nhau về cách dịch” (Nghiên cứu, tr.18)”.

Qua hai đoạn phê bình vừa dẫn cho thấy, ở đoạn đầu thầy phê bình tác giả của NC5VĐT hoàn toàn không đề cập và xử lý văn bản, cho nên dẫn đến kết luận sai lầm. Thế nhưng, ở đoạn 2 thì thầy lại xác định tác giả của sách này, sau khi giới thiệu 4 bản dịch khác nhau, tác giả (HB) đưa ra nhận định: Tuy dịch giả khác nhau, nhưng với nội dung không khác nhau mấy, đây chính là sự mâu thuẫn.

Nội dung phê bình ở đoạn 2 mà thầy dẫn, điều đó không phải xác định tác giả (HB) đã đem những bản dịch khác nhau đối chiếu so sánh, rồi đưa đến kết luận: “nội dung giống nhau” sao? Theo tôi, nếu tôi và thầy có khác nhau chỉ là sự chú ý khác nhau. Tôi chú ý về mặt tư tưởng, còn thầy chú ý về mặt nhân vật Đại Thiên sau Phật Niết bàn 100 năm ở những bản dịch khác, với mục đích xóa bỏ nhân vật này trong bản dịch của Huyền Trang. Đây là vấn đề lịch sử, nên không thể muốn bỏ là bỏ, muốn không là không. Có lẽ thầy quá tin tưởng vào suy luận của mình chăng?

5. Thầy Giác Dũng so sánh 4 bản dịch nhằm hủy bỏ nhân vật Đại Thiên sau Phật Niết bàn 100 năm

Trong bài viết của mình, thầy Giác Dũng phê bình:

“… Hoàn toàn sai lầm. Một cách viết hết sức cẩu thả, không thể chấp nhận trong nghiên cứu! Như tôi sẽ trình bày cặn kẽ dưới đây, có sự khác nhau giữa bốn dịch bản này về nhân vật Đại Thiên va điều quan trọng hơn, chính sự khác nhau đó đã làm sụp đổ hoàn toàn giá trị của nghiên cứu” (tr.70, NSGN số 141).

Căn cứ lời phê bình này, chúng ta thử tìm hiểu về phương pháp tìm tư liệu, phân tích và đánh giá tư liệu của thây, cũng như mục đích của nó như thế nào! Xuyên qua công việc thực tế mà thầy đã trình bày trong bài viết của mình, quả thật thầy đã trích dịch 4 dịch bản khác nhau, cả bản Hán ngữ và Tạng ngữ. Theo sự sắp xếp thứ tự của thầy, chúng ta thấy: 1. Bản Tây Tạng là “Gshung lugs kyi bye brag bkod pa'i 'khor lo”, do hai ngài: Dharmàkara và Bzang Skyong dịch từ Sanskrit sang tiếng Tây Tạng; 2. “Thập bát bộ luận”, do ngài Chân Đế dịch, 3. “Bộ chấp dị luận”, cũng do ngài Chân Đế dịch, 4. “Dị bộ tông luân luận”, do ngài Huyền Trang dịch. Thầy (GD) cũng đã dịch 4 bản này sang Việt ngữ, đó là những đoạn có liên quan đến 5 việc và 5 việc của Đại Thiên. Đặc biệt, riêng bản Tây Tạng, thầy lại trích nguyên cả tiếng Tây Tạng bằng phiên âm La-tinh. Tôi đọc tới đây cảm thấy choáng váng, vì mình không biết tiếng Tây Tạng, làm sao có thể nói chuyện với thầy, nhưng cũng may thầy đã dịch sang tiếng Việt. Như vậy, nếu ai không biết tiếng Tây Tạng như tôi thì tạm thời cứ tin vào bản dịch của thầy vậy.

Thật ra, 4 dịch bản này, tác giả của NC5VĐT cũng đã đề cập trong tác phẩm của mình, nhưng chỉ vì trong lúc viết không tìm được dịch bản của tiếng Tây Tạng, nên không dám đưa vào danh sách thảo luận, mà chỉ đề cập đến tên của bìa sách mà thôi. Đây là một việc làm thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.  

Với 3 tác phẩm Hán dịch, tác giả (HB) đã so sánh và đưa ra lời nhận định: Nội dung của 3 dịch bản này không khác nhau mấy, chỉ khác nhau về cách dịch . Riêng sự kiện về 5 việc sau Phật Niết bàn 100 năm, tác giả NC5VĐT cũng như một vài học giả khác cho rằng, xem tác giả 5 việc đầu cũng chính là tác giả của 5 việc sau, đó là Đại Thiên, chẳng qua điểm khác biệt giữa 5 việc sau và trước là: “nhân vật Đại Thiên sau chỉ là người kế thừa hoằng dương tư tưởng của Đại Thiên đầu, không phải là tác giả của 5 việc. Như vậy, Đại Thiên sau chúng ta chỉ xem ông như là người nhận lãnh trách nhiệm truyền thừa tư tưởng mà thôi, nhưng có lẽ vì ông quá thần tượng ngưỡng mộ tư tưởng của Đại Thiên, và xem như là người thầy của mình, cho nên ông cũng xem mình là Đại Thiên”. Đây là quan điểm khác biệt của tôi, như đã được trình bày một cách rõ ràng ở Chương II.2 với tựa là: “Có một hay hai Đại Thiên?”. Vì không đồng tình với quan điểm này, thầy Giác Dũng đã đem 4 bản dịch ra so sanh, kết quả là trong đó chỉ có một dịch bản của ngài Huyền Trang có đề cập đến nhân vật Đại Thiên sau Phật Niết bàn 100 năm, còn 2 bản dịch của Chân Đế và dịch bản của Tây Tạng (theo tư liệu mà Thầy đưa ra) chỉ đề cập 5 viêc, nhưng không đề cập đến nhân vật Đại Thiên. Từ kết quả so sánh này, thầy Giác Dũng đi đến kết luận rất cả quyết rằng : “Không có nhân vật Đại Thiên vào khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt” (ở lời kết), chỉ có một nhân vật Đại Thiên được xuất hiện vào khoảng 200 năm sau Phật nhập diệt, mà thầy gọi là “phân phái ngọn”.

Nếu chúng ta chấp nhận quan điểm này là hợp lý thì một số vấn đề hoài nghi được đặt ra: Trong 2 bản Hán dịch của ngài Chân Đế (1 người) đều không đề cập nhân vật Đại Thiên sau Phật nhập diệt 100 năm, nhưng tất cả 3 bản dịch đều đề cập đến nguyên nhân dẫn đến nội bộ Tăng già phân chia chính là do 5 việc, nội dung và ý nghĩa của 5 việc này cũng chính là nội dung ý nghĩa của 5 việc Đại Thiên. Thế thì vấn đề được đặt ra là:

- Nếu 5 việc sau là do Đại Thiên tạo, còn 5 việc trước do ai tạo ra?
- Tại sao 2 sự kiện cách nhau đến 100 năm mà nội dung và ý nghĩa của vấn đề lại giống nhau?
- Sự giống nhau đó có ý nghĩa gì?
- Nếu thầy phủ nhận Đại Thiên không phải là tác giả của 5 việc sau Phật Niết bàn 100 năm, thì ít ra thầy cũng phải lý giải nhân vật nào đã đưa ra 5 việc này. Không thể chỉ có 5 việc mà không có người tạo việc.

Tôi nghĩ, các nhà nghiên cứu Phật học cũng đã nhiều đắn đo khổ trí về vấn đề có một hay hai Đại Thiên. Trả lời một hay hai không phải là khó, nhưng khó ở vấn đề là nó còn liên hệ đến những vấn đề chung quanh trước và sau nó. Vì vấn đề sử học luôn là sự móc xích theo mối quan hệ nhân quả, cái này vừa làm quả cho cái này, nhưng lại vừa làm nhân cho cái khác, cứ thế lịch sử trôi chảy theo tính logic va định luật của nó. Có lẽ đó chính là nguyên nhân cho những nhà nghiên cứu sử cần phải thận trọng trong lời phát biểu của mình.

Trở lại vấn đề, còn lại bản dịch của Tây Tạng mà thầy Giác Dũng đã đưa ra trong bài phê bình của mình, với tôi đây là một tư liệu mới, tôi sẽ nghiêm túc nghiên cứu tư liệu này. Trong đó, điểm đặc biệt mà tôi chú ý là vấn đề niên đại của các sự kiện lịch sử, nó không khác bản Hán dịch, nhất là bản dịch của Chân Đê cũng ghi sự kiện tranh cãi về 5 việc xảy ra vào năm 100 năm sau Phật Niết bàn, và 200 năm sau Phật Niết bàn lại xảy ra sự tranh cãi về 5 việc do Đại Thiên tạo ra, đồng thời sự kiện xuất hiện vua A Dục cũng vào sau năm 100 năm. Những sử liệu được ghi lại trong dịch bản này cũng khác với những gì mà các học giả thường trích dẫn từ bản dịch của Tạng ngữ, như Lamotte và Andre Bareau đã trích dẫn. Như vậy, phải chăng Tạng ngữ có hai dịch bản? Để trả lời cho câu hỏi này, hiện tại trong tay tôi có một bản dịch khác với bản của thầy đã đề cập. Bản này có tựa đề là: “Dhe-a Tha-Dad-par Byed-pa Dan Rnam-par-bCad-pa” vốn được dịch từ Phạn văn: “Nikayabheda-vibhangavyakhyana”, sau đó được 2 người Nhật tên là Tự Bổn Uyển Nhã và Bình Tùng Hữu Tự dịch từ tiếng Tây Tạng sang tiếng Nhật và chú thích, với tựa đề là “Dị Bộ tông tinh thích”. Qua nội dung dịch bản, tôi khám phá có sự dị biệt rất lớn giữa 2 bản Tạng ngữ. Trong đó sự khác biệt cơ bản, chính là niên đại của các mốc lịch sử:

- Thứ 1: đề cập đến niên đại của vua Dharmasoka (Chánh Pháp A Dục) là năm 160 sau khi Đức Phật nhập Niết bàn.
- Thứ 2: Sau khi Thế Tôn nhâp Niết bàn, vào năm 137 năm ở triều đại Nan Đà, nhà vua tên là Đại Liên Hoa (Mahapadma), tại thành Pataliputra phát sinh tranh cãi về 5 việc .
- Thứ 3: Có một người ngoại đạo tên là Đại Thiên (Mahadeva) xuất gia trong Đại chúng bộ tuyên thuyết về 5 việc cho nên đã thành lập phái Chế đa sơn bộ?

Qua đó, chúng ta thấy nguồn tư liệu của bản Tạng văn ghi niên đại của nhà vua A Dục là 160 sau Phật Niết bàn, và sự kiện xảy ra 5 việc vào thời gian 137 sau Phật NB. Hai niên đại này không giống như các bản Hán dịch cũng như bản Tạng ngữ mà thầy Giác Dũng đưa ra, tức sự kiện 5 việc xảy ra vào năm 100 năm sau Phật NB vào thời vua A Dục, đồng thời sự kiện xuất hiện vua A Dục cung đẩy lui đến 160 năm, không phải 100 năm sau Phật NB. Có một điều chúng ta cần chú ý, sự kiện 5 việc được xảy ra trước thời A Dục, mà không phải vào thời A Dục. Theo tôi thời điểm này là hợp lý, vì nó phải xảy ra sau thơi kỳ kiết tập lần thứ hai, Tăng già tranh cãi về ‘10 việc’ phi pháp hay không phi pháp được xảy ra vào khoảng 100 năm sau Phật NB giữa 2 nhóm Tỳ kheo Bạt Kỳ (canh tân) và nhóm các vị Thượng tọa mà người đứng đầu là Da Xá (bao thủ). Do kết quả cuộc kết tập này ‘10 việc’ thành phi pháp, cho nên sau đó mới diễn ra cuộc kiết tập về 5 việc của Đại Thiên vào năm 137 sau Phật NB. Mốc thời gian 137 năm sau khi Phật nhập diệt này, đã xảy ra 5 việc tranh cãi, lại cũng được học giả người Pháp tên Andre Bareau đã đề cập trong tác phẩm mang tựa đề “Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa” đã được Pháp Hiển chuyển sang Việt ngữ, xuất bản năm 2002. Trong tác phẩm này, Andre Bareau nhân định về sự kiện 5 việc của Đại Thiên như sau:

“Nhiều nguồn tư liệu khác nhau đều đồng ý với sự giải thích rằng cuộc phân phái này bắt nguồn từ “năm đề thuyết của Mahadeva” (Đại Thiên Ngũ Sự) liên hệ đến tính cách A la hán… Cũng theo các tư liệu ấy, sự kiện này diễn ra ở Pataliputra trong nửa đầu thế kỷ II sau Phật nhập diệt; và các tư liệu Chính lượng bộ, do Bhavya ghi lại, còn xác định hẳn là: vào năm 137 sau Niết bàn, dưới triều đại các vua Nanda và Mahapadma, tức vào khoảng năm 343 (480-137) trước Tây lịch. Trong khi các tư liệu muộn sinh của vùng Kasmir (Vasumitra) lại ghi là vào năm 100 hoặc 116 sau Niết bàn dưới triều Asoka, nhưng điều này bị phản bác bởi sự im lặng của các tư liệu Kasmir khác, xưa hơn và thuộc các nguồn gốc khác nhau (Tỳ bà sa, Kinh Viên Giáo Xá Lợi Phất). Các tư liệu này tất cả đều chính thức thừa nhận vai trò trọng tài của vị vua vùng Magadha trong giai đoạn ây, nhưng không cho biết tên của vị vua này và cũng không xác định thời điểm. Nếu đó là vua Asoka, vị hộ pháp lớn nhất của Phật giáo, thì tên của ông không thể bị hai tác phẩm ấy bỏ qua. Vả lại, việc đặt vua Asoka vào đầu thế kỷ thứ II sau Niết bàn là không thể chấp nhận được.

Vì vậy, chúng ta có thể đặt cuộc phân phái của Đại chúng bộ vào khoảng năm 140 sau Niết bàn, tức khoảng năm 340 trước trước Tây Lịch, xảy ra ở Pataliputra, dưới triều vua Nanda và Mahapadma…”.

Như vậy, học giả Andre Bareau cũng cho rằng, sự kiện xảy ra vào năm 137 sau Phật Niết bàn, tức là sự kiện tranh cãi về 5 việc, cũng chính là 5 việc của Đại Thiên, dẫu rằng, ông không chấp nhận sự kiện nay xảy ra vào năm 100 hay 116 vào thời vua Asoka như Thế Hữu đã ghi trong “Dị bộ” hay “Chấp dị bộ”, nhưng ông vẫn cho rằng việc tranh cãi lần thứ nhất về 5 việc chính là 5 việc của Đại Thiên, còn cuộc tranh cãi lần thứ hai về 5 việc của Đại Thiên mà thầy Giác Dũng gọi là ‘phân phái ngọn’, theo Andre Bareau cũng là sự tranh cãi về 5 việc của Đại Thiên, nhưng mà là Đại Thiên mới. Như ông nói: “Theo paramartha, một vị Đại Thiên mới đã gieo rắc sự rối loạn tinh thần bằng việc thụ giới không đúng đắn…” . Như vậy, ông thừa nhận Đại Thiên đầu là Đại Thiên cũ.

Từ những căn cứ trên, chúng ta có thể nói lên điều: 5 việc chính là 5 việc của Đại Thiên, điều mà tác giả cuốn NC5VĐT đã nghiên cứu và nhận xét, đó không phải là nhận xét đầu tiên cũng không phải là nhận xét duy nhất, mà các học giả Andre Bareau, Ấn Thuận, Lữ Trưng, Thánh Nghiêm cũng có nhận định như thế. Nếu không chấp nhận nhân vật Đai Thiên sau Phật nhập diệt 100 năm, thì liệu nhân vật Đại Thiên sau Phật nhập diệt 137 năm có được chấp nhận hay không? Sự dẫn chứng trên không mang ý nghĩa nào khác ngoài việc bảo vệ ý kiến của tác giả. Thầy Giác Dũng chỉ đơn thuần căn cứ vào 4 bản dịch mà mình biết, đem ra so sánh, (nhưng trong đó bản Tạng ngữ và nhất là bản dịch của thầy, tôi cảm giác có gì đó chưa ổn); ngang qua những bản dịch mà thầy biết, rồi đơn giản làm phép tính cộng trừ, sau đó đưa đến kết luận:

“Sau khi làm công việc so sánh và loại trừ, sự kiện nhân vật Đại Thiên thứ nhất chỉ có tỉ lệ 1/4 (chỉ có một dịch phẩm trong số bốn dịch phẩm ghi lại), một tỉ lệ quá thấp nên không thể chấp nhận được”.

Rồi cũng từ đó thầy đi đến phủ nhận nhân vật Đại Thiên, và tiếp tục phê bình tác giả của NC5VĐT. Cách làm này chẳng khác nào cách tính phiếu bầu cử. Người nào nhiều phiếu thì thắng, ít phiếu thì bại. Nếu như chung ta chỉ dựa vào lá phiếu nhiều hay ít để kết luận những vấn đề thuộc lãnh vực khoa học, như vậy liệu có chủ quan, ép buộc quá chăng?

Tôi không phủ nhận so sánh là một trong những phương pháp cần thiết giúp cho người nghiên cứu tiếp cận sự thật hơn, nhưng đó không phải là phương pháp duy nhất, chỉ đơn thuần dựa vào yếu tố nhiều ít để kết luận về một số vấn đề nào đó.

Lại nữa, theo cách so sánh những bản dịch này của thầy, thầy có thể lý giải vấn đề tại sao hai bản dịch của Chân Đế không có nhân vật Đại Thiên ở lần tranh cãi về 5 việc sau Phật Niết bàn, nhưng riêng bản dịch của ngài Huyền Trang thì lại thêm vào nhân vật Đại Thiên này? Lý do tại sao? Huyền Trang được lợi gì? Có ý đồ gì trong việc thêm này? Hẳn có người sẽ hỏi: Tại sao thầy không cho rằng hai bản dịch kia là sai mà lại cho rằng Huyền Trang là sai? Nếu như thầy căn cứ cách cộng trừ vừa rồi để giải đáp thì người hỏi cũng sẽ đưa ra lập luận rằng: Huyền Trang là một học giả lớn của Phật giáo Trung Quốc, đứng về mặt thành tựu này Chân Đế không bằng, cho nên căn cứ vào bản dịch của Huyền Trang sẽ thuyết phục hơn?

Về việc thầy phê bình tác giả của NC5VĐT là người lười biếng không chịu so sánh đối chiếu 4 dịch bản cho nên dẫn đến kết luận sai lầm. Ở đây tôi muốn nêu ra một sự kiện về sự thiếu sót của thầy trong việc đưa ra dịch bản so sánh, đó là thầy vô tình hay cố ý bỏ qua bản dịch Nhật ngữ như tôi đã đề cập ở trên? Liên quan vấn đề này, tôi xin nhường lời cho những người chuyên môn phân tích và nhận định. Riêng tôi vẫn còn hoài nghi về dịch bản Tây Tạng mà thầy đưa ra, mặc dù thầy đã đề cập đến điểm xuất xứ của tư liệu này, tôi sẽ tìm hiểu và làm sáng tỏ nó.

Thứ 6: Phê bình tác giả về việc không tham khảo các tác phẩm A tỳ đạt ma

Trong bài viết của mình, thầy Giác Dũng phê phán như sau:
Trong mục ‘A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận’ của Nghiên cứu, rất tiếc tác giả không giới thiệu thêm một dịch phẩm nào khác có liên quan đến A tỳ đạt ma hệ. Như thế, tác giả đã không tuân thủ phương pháp luận của mình, không dựa trên văn bản. Điều đó chắc chắn sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm hết sức tai hại”. (NSGN số 142, trang 71).
Đúng như lời phê bình của thầy Giác Dũng, tác giả chỉ đề cập đến “Đại tỳ bà sa luận”, không thảo luận đến các luận khác như “Phát trí luận”, “Kiền độ luận”. Đây cũng là điểm góp ý, mà chúng ta phải chú ý, khi cần bàn đến 5 việc. Những gì có liên quan đến 5 việc được thảo luận trong 2 luận này (“Bát kiên độ luận” và “Phát trí luận”), như đã được thầy Giác Dũng trích dịch, chủ yếu để giải thích: “Năm việc này thuộc kiến nào trong Năm ác kiến và được đoạn trừ bằng đế nào trong Tứ đế” hoặc “Năm việc này thuộc kiến nào trong Năm ác kiến của Căn bản phiền não và được đoạn trừ bằng đế nào trong Tứ đế”. Có nghĩa là luận này chỉ dạy pháp tu cho người nào rơi vào 5 loại tà kiến, người ấy phải sử dụng pháp nào để sửa đổi tà kiến ấy.
Ở đây, một lần nữa tôi xin xác định quan điểm của mình: Tôi không đồng tình quan điểm của các nhà Hữu bộ cho 5 việc của Đại Thiên là tà kiến, như tôi đã trình bày rõ ràng trong tác phẩm của mình. Đó chính là lý do tại sao trong tac phẩm của mình, tôi chọn tựa đề “Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên”, nó có ý nghĩa là tìm hiểu, nghiên cứu 5 quan điểm mà Đại Thiên đã đưa ra có phải là tà kiến hay không? Đây cũng chính là một trong những chủ đề lớn được các luận “Kathavatthu” và “Đại Tỳ bà sa” thảo luận sôi nổi, quan điểm của 2 Luận này đều cho rằng, 5 quan điểm của Đại Thiên là ác kiến. Riêng “Đại tỳ bà sa” còn đi xa hơn nữa là bươi móc đời tư của Đại Thiên trước khi ông xuất gia (nếu có), lấy đó làm bằng cớ để kết tội. Sự kiện có phải ông là người phạm 3 tội nghịch hay không còn là nghi vấn, nhưng vì chưa đủ cơ sở để chứng minh, cho nên điều này vẫn chưa được bàn luận trong tác phẩm NC5VĐT. Nhưng cho dù ông có phạm tội đó đi chăng nữa, đó là sự sai lầm trước khi ông xuất gia. Sau khi xuất gia, ông đã ăn năn sám hối, tu tập và chứng quả, điều đó không trái với tư tưởng tu tập trong nhà Phật. Thế thì tại sao lấy chuyện trước để nói chuyện sau? Theo tôi, sự ghi chép về lịch sử của ông trong “Luận Tỳ bà sa” có tính xuyên tạc, cho nên không những chỉ có tôi không đồng tình mà nhiều vị tôn túc trong Phật giáo cũng không đồng tình, cụ thể là ở Việt Nam có Hòa thượng Trí Quang, ở Singapore có HT.Diễn Bồi, Đài Loan có HT.Thánh Nghiêm, nhất là một học giả nổi tiếng là HT.Ấn Thuận…, các ngài cũng không đồng tình với nguồn tư liệu này. Nhưng tại sao các ngài không tiến sâu hơn nữa, chỉ dừng lại ở sự không đồng tình, và cũng không giải thích lý do tại sao không đồng tình, bằng chứng cụ thể ra sao? Phải chăng các ngài ngại sự phản ứng từ tín chúng?

Cũng vì tính tò mò, mà tôi đã bỏ một thời gian khá dài để tìm hiểu vấn đề này, khi tìm hiểu mới biết vấn đề khá phức tạp, vì bản thân nó có liên quan đến nhiều sự kiện lịch sử khác, hơn nữa nguồn tư liệu viết về ông chỉ được ghi chép trong các luận của phai đối lập, còn bản thân ông cũng như Đại chúng bộ không để lại tư liệu nào giải thích về 5 việc, cho nên tôi phải dùng nhiều cách khác nhau, đặt nhiều giả thuyết khác nhau, nhằm tái hiện sự diễn biến của cuộc tranh luận đó. Thế nhưng, khi chân tướng hiển lộ thì nó đi ngược lại với tình cảm và thói quen suy nghĩ của nhiều người, trở thành sự ác cảm đối với tác giả. Dù biết thế, nhưng vì tôn trọng sự thật lịch sử theo cái nhìn của mình, nên tác phẩm NC5VĐT đã đến tay độc giả. Nói tóm lại, theo tôi, 5 điểm của Đại Thiên là hợp lý, không trái với quan điểm tư tưởng của Đức Phật và phù hợp với bản chất của con người. Lý do tại sao tôi không đồng tình với quan điêm của hai luận này đã được trình bày trong tác phẩm NC5VĐT.

Trở lại vấn đề, quan điểm của tôi đã không chấp nhận 5 việc của Đại Thiên là tà kiến, thì tại sao tôi phải căn cứ vào cách sám hối của 2 luận này?

Đây chính là lý do tại sao tôi không đưa hai luận này vào nội dung thảo luận. Rõ ràng là nó không liên quan gì đến nội dung mà tôi thảo luận trong tác phẩm của mình. Nếu tôi thảo luận về nó thì gián tiếp tôi đồng tình quan điểm của “Đại Tỳ bà sa” và “Kathavatthu” sao? Hơn nữa, ở đây tôi cũng không muốn khoe chữ bằng cách giới thiệu sách này sách kia, kinh này luận nọ mà ý tưởng của nó không nắm vững, rơi vào trước sau mâu thuẫn.

Thứ 7: Xin được hỏi, “Kinh Tăng Nhất A Hàm”, “Luật Ma ha Tăng kỳ” và “5 việc”, sự kiện nào có trước, sự kiện nào có sau?

Trong bài viết của mình, thầy Giác Dũng phê phán:
Như trên tôi đã chứng minh: Nhân vật Đại Thiên mà tác giả của “Nghiên cứu” cho rằng ra đời sau Đức Phật nhập diệt 100 năm, là vị Tổ lãnh đạo Đại chúng bộ không có thật. Và bây giờ muốn kiểm tra lại điều đó cũng rất dễ dàng. Nếu Đại Thiên là Tổ lãnh đạo của Đại chúng bộ thì ít nhiều những văn bản cua Đại chúng bộ phải ghi lại, Nhưng Ma ha tăng kỳ luật và kinh Tăng nhứt A Hàm hoàn toàn không có đề cập gì đến vị “Tổ sư” của mình cả!” (NSGN số 142, trang 76).

Nội dung đoạn phê bình này, thầy Giác Dũng đã phát hiện lời nhận định sai sót của tác giả trong cuốn NC5VĐT, vì tác giả viết câu: “Nhưng ở đây có một vấn đề mà chúng ta không thể đề cập là các nhà nghiên cứu Phật học đều cho rằng, Kinh A Hàm và Nikàya thuộc về Thượng tọa bộ”. Đây là câu viết sai, vì theo các nhà nghiên cứu cho rằng Tăng Nhất A Hàm thuộc Đại chúng bộ không phải thuộc Thượng tọa bộ. Lời phê bình của thầy là hợp lý. Thế nhưng, từ những lời lẽ phê bình của Thầy lại bộc lộ sự không rõ ràng về lịch sử kiết tập kinh điển Phật giáo cho nên thầy đặt câu hỏi:

“Nếu Đại Thiên là Tổ lãnh đạo của Đại chúng bộ thì ít nhiều những văn bản của Đại chúng bộ phải ghi lại, Nhưng Ma ha tăng kỳ luật và kinh Tăng Nhứt A Hàm hoàn toàn không có đề cập gì đến vị “Tổ sư” của mình cả!”.

Với câu hỏi này, phải chăng ý thầy cho rằng kinh Tăng Nhất A Hàm và Ma ha Tăng kỳ luật được kết tập trước hay sau khi xảy ra 5 việc của Đại Thiên? Nếu như kinh và luât này được kiết tập sau Đại Thiên thì thầy giải quyết như thế nào về quan điểm của luật cho rằng, 4 A hàm hay 5 bộ Nikaya được kết tập lần thứ nhất ngay sau khi Phật nhập diệt? Nếu như thầy không đồng quan điểm của luật vê vấn đề kiết tập thì vấn đề Thầy đưa ra là hợp lý, nhưng Thầy phải lý giải như thế nào trong lịch sử kiết tập kinh điển?

Riêng tôi xin trả lời câu hỏi thầy đặt ra như thế này: Dẫu rằng trong 4 hàm hay 5 bộ Nikaya không đề câp nhân vật Đại Thiên, nhưng có khá nhiều kinh trong những bộ kinh này, đã đề cập đến vấn đề “5 tội nghịch” như kinh Đa Giới trong cả hai bộ kinh Trung Bô và kinh Trung A Hàm, cũng như không ít kinh luật đề cập vấn đề ‘phi pháp phi luật’, vấn đề tự ngôn chứng Thánh… Vấn đề mà chúng ta cần là làm rõ ai tạo 5 tội nghịch? Như chúng ta biết, Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) tạo 2 tội cuối là phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật chảy máu. 3 tội còn lại là do ai tạo? Nếu như đó là do Đại Thiên thì Đại Thiên đã xuất hiện ở thời kỳ A hàm và Nikaya. Liên quan đến vấn đề gì mà lại nói phi pháp phi luật, phải chăng có liên quan đến 5 việc của Đại Thiên? Ai là người đầu tiên tự cho mình chứng quả để rồi dẫn đến luật qui định: ‘Bất đắc tự ngôn chứng Thánh’? Có phải là Đại Thiên không?… Và còn biết bao nhiêu vấn đề khác nữa, đã xuất hiện trong cả A hàm và Nikaya, chúng có liên quan đến Đại Thiên, không phai là không có. Nghi vấn mà tôi đặt ra là, sau khi ông bị Thượng tọa bộ truy hỏi, tại sao chính ông và phái của ông không có một bộ luận nào lý giải vấn đề này, chứ không phải là kinh hay luật. Xin thầy đọc kỹ lại quan điểm của tôi trong tác phẩm này.

Thứ 8: Sự trích dẫn, diễn giải làm sai ý tác giả

Thầy Giác Dũng sau khi làm công việc so sánh như tôi vừa trình bày ở mục thứ 5, 6 sau đó thầy phê bình:

“Rất tiếc, tác giả Nghiên cứu đã không tra cứu tất cả các văn bản về vấn đề này mà chỉ dựa trên một dịch phẩm duy nhất là Dị bộ. Để rồi từ đó kết luận rằng có hai nhân vật Đại Thiên”.
Ở đây tôi không cần thảo luận đến những nhận định mang tính chủ quan của thầy, chỉ thử làm công việc kiểm tra cách trích dẫn và diễn đạt lại ý của người khác có nghiêm túc không. Thầyđã trích dẫn như sau:

“Nhân vật Đại Thiên thứ nhất là người đề xướng lên Năm việc dẫn đến sự phân chia bộ phái gốc; còn nhân vật Đại Thiên thứ hai là người trùng tên nhân vật Đại Thiên thứ nhất và là người kế thừa hoằng dương tư tưởng của Đại Thiên thứ nhất (Nghiên cứu, I.2006, tr.41-42).” (NSGN số 141, trang 73)

Trong khi đó nguyên văn trong tác phẩm này ghi:

Thế nhưng, dẫu rằng Thế Hữu có đề cập 2 nhân vật Đại Thiên cùng tên và cùng chủ trương 5 việc, nhưng nếu chúng ta đọc kỹ lời tường thuật của Thế Hữu thì nó cho chúng ta thấy rõ, Đại Thiên sau chỉ là người kế thừa hoằng dương tư tưởng của Đại Thiên đầu mà thôi, không phải là người đưa ra năm việc. Như vậy Đại Thiên sau chúng ta chỉ xem ông như là người nhận lãnh trách nhiệm truyền thừa tư tưởng mà thôi, nhưng có lẽ vì ông qua thần tượng ngưỡng mộ tư tưởng của Đại Thiên, và xem như là người thầy của mình, cho nên ông cũng tự xưng mình là Đại Thiên” (NC5VĐT, tr.41~42)

Qua nguyên văn vừa dẫn, chúng ta thấy không có chỗ nào tác giả dùng từ là “trùng tên” và ngay cả ý nghĩa của đoạn văn cũng không có ý này. Tôi mô tả: vì ông quá thần tượng ngưỡng mộ nhân vật Đại Thiên, và xem như là vị thầy, cho nên cũng tự xưng là Đại Thiên. Ý này tôi muốn nói, Đại Thiên ở vào hoàn cảnh bấy giờ, dường như ai cũng nguyền rủa ông, không ai dám thừa nhận, gần gũi ông, vì sợ bị ảnh hưởng, cho nên mọi người cố tình tránh xa ông. Cái ý mà tôi vừa trình bày là ý ông tự nhận, tình nguyện, không phải là ý ‘trùng tên’ mang tính tình cờ.

Vì thế mà tôi kết luận: Đoạn văn trên thầy đã trích dẫn sai với văn từ ý nghĩa của nguyên tác, thầy đã diễn dịch theo ý của riêng thầy, sai ý của tác giả.

Thứ 9: Lời đề nghị thay cho lời kết

Những diễn đàn mang tính trao đổi về học thuật trình bày quan điểm của mình về Phật học, về cuộc sống… là những nhu cầu hết sức cần thiết cho Phật giáo Việt Nam cả trong nước lẫn ngoài nước ở thế hệ của chúng ta. Môi trường đó sẽ giúp chúng ta có cơ hội trao đổi và học tập lẫn nhau, chia sẻ cho nhau những gì tốt đẹp, cùng nhau phát triển.

Thật ra ở trên đời này không ai là người toàn thiện toàn mỹ, cũng không có ai hoàn toàn chỉ có điểm xấu. Do vậy, chúng ta nên tạo môi trường giao lưu về mặt học thuật mang tính lành mạnh, cùng nhau chân tình chia sẻ những điều hay lẽ phải mà chúng ta học được từ trong nước lẫn ngoài nước. Nên cố gắng kềm chế những cá tính của mỗi người chúng ta, bằng cách biểu lộ những suy tư đứng đắn nghiêm túc, nhưng không thiếu tính bao dung, độ lượng.

Dù sao đi nữa tôi cũng xin cảm ơn sư Chánh Minh, thầy Giác Dũng đã bỏ thời gian chỉ cho những điểm sai sót trong tác phẩm của tôi, mong quý vị cứ thẳng thắn góp ý phê bình trong tinh thần trao đổi và chia sẻ.


 1) Thích Hạnh Bình, "Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên”, NXB Tôn Giáo, 2006.
(2) Sđd, tr.17~18.
(3) Sđd, tr.18.
(4) Sđd, tr.42.
(5) Rất tiếc, bản dịch này là bản photo lại của một người bạn tặng, không thấy NXB và năm xuất bản.
(6) Như trên tr.1~2.
(7) Như trên t.8~9
(8) Andre Bareau, Pháp Hiền dịch, “Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa”, NXB Tôn Giáo, Hà Nôi 2002, tr 54~55.
(9) Andre Bareau, Pháp Hiền dịch, “Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa”, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2002, tr.57.
 

Taipei, ngày 25-12-2007

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 398/GP-BTTTT ngày 2-8-2022.
Tổng biên tập: TT.Thích Tâm Hải.
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2023. Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.