GN - Một sự việc đau lòng, một sự tổn thương rất lớn đối với Phật giáo khi bom đã nổ trên Thánh tích thiêng liêng bậc nhất của Phật giáo tại Ấn Độ. Có ít nhất hai người bị thương và một vài hạng mục từ trong khuôn viên Bồ Đề Đạo Tràng bị hư hại nhẹ: vài trụ đá bị gãy, một số bậc thềm và khung cửa bị vỡ... Cây bồ-đề, nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo, đã không hề hấn gì; và đặc biệt, quả bom cài đặt bên trong Đại tháp cũng kịp thời được tháo gỡ.
Trong một thế giới mà sự bất ổn ngày càng leo thang, chiến tranh, tai nạn, dịch bệnh, đói khát... hoành hành như ngày nay, thì vụ nổ ở Bồ Đề Đạo Tràng (bang Bihar), xét về mặt hiện tượng, không phải là một vụ khủng bố lớn.
Tuy nhiên, điều gây chấn động chính là Bồ Đề Đạo Tràng - biểu tượng tâm linh thiêng liêng, và Phật giáo - tôn giáo của hòa bình, từ bi, trí tuệ, đã phải hứng chịu một sự tổn thương rất lớn khởi từ sự thù hiềm, oán hận của một số người chưa được xác định cụ thể. Hiện, vẫn chưa có cá nhân hay tổ chức nào đứng ra nhận trách nhiệm về vụ đánh bom nêu trên.
Trong vụ khủng bố, một vị sư bị thương
Vụ khủng bố từng được cảnh báo: nguyên nhân từ đâu?
Sau khi cuộc tấn công khủng bố diễn ra, qua phân tích các đoạn băng từ camera giám sát, cảnh sát Ấn Độ phát đã hiện có hai người đàn ông đặt những thiết bị nổ quanh khu Đại tháp, và họ “đang làm tất cả những gì có thể” để xác định danh tánh những đối tượng này. Cảnh sát cũng đã bắt giữ và thẩm vấn một người đàn ông có tên Vinod Mistri do tình nghi người này liên quan đến vụ đánh bom tại Thánh tích thiêng liêng của Phật giáo.
Nhiều tờ báo cho hay, vụ đánh bom nhắm vào Bồ Đề Đạo Tràng vốn đã được cảnh báo từ trước, ít nhất là từ khi kẻ khủng bố có tên David Headley, người Pakistan, quốc tịch Mỹ có liên quan chặt chẽ với loạt vụ khủng bố kinh hoàng tại Mumbai năm 2008, bị bắt. David Headley khai rằng, tổ chức Lashker-e-Ttaiba (LeT) ở Pakistan - được xem là tổ chức khủng bố nguy hiểm nhất thế giới hiện nay - đã chuẩn bị cuốn băng video cho kế hoạch đánh bom Bồ Đề Đạo Tràng. Một kẻ khủng bố tại thành phố Hyderabad bị bắt vào năm ngoái cũng khai rằng, kế hoạch tấn công Bồ Đề Đạo Tràng đã được vạch ra.
Các cuộc khủng bố nhắm vào người Phật giáo trở nên đáng báo động hơn bao giờ hết có thể kể từ năm ngoái, cụ thể sau khi những cuộc xung đột xảy ra giữa cộng đồng thiểu số những người theo Hồi giáo ở Myanmar và những Phật tử địa phương tại vùng giáp ranh Bangladesh, khiến những người Hồi giáo cực đoan gấp rút lên kế hoạch trả thù. Trớ trêu thay, kế hoạch hãm hại người Phật giáo của họ lại diễn ra tại Ấn Độ, nơi Phật tử chỉ chiếm thiểu số còn người Hồi giáo lại rất đông. Đỉnh điểm vụ việc này là một Phật tử người Tây Tạng bị giết tại Bangalore, miền Nam Ấn, khiến cho bộ phận an ninh Ấn Độ phải huy động mỗi ngày đến 10 ngàn cảnh sát bảo vệ. Trước đó, một số thanh niên Hồi giáo cực đoan tại Bangladesh đã tự tạo một số hình ảnh phản cảm đối với Hồi giáo, đăng tải những hình ảnh này lên Facebook và vu khống cho người Phật tử đã tạo ra chúng, khiến cộng đồng Hồi giáo sôi sục căm phẫn. Ngay sau đó, hàng loạt ngôi chùa đã bị đốt cháy, nhiều người Phật tử sống trong những ngôi làng rải rác tại Bangladesh đã phải tìm đường lánh nạn sang Myanmar...
Trong làn sóng đó, chính quyền Delhi đã gởi đi nhiều lời cảnh báo đến chính quyền bang Bihar về nguy cơ khủng bố đe dọa Bồ Đề Đạo Tràng, và cảnh báo gần đây nhất là trước vụ đánh bom này 2 tuần, nhưng tất cả đều bị chính quyền bang Bihar phớt lờ.
Như vậy, nguyên nhân vụ đánh bom Bồ Đề Đạo Tràng, nếu nhìn gần, có thể đến từ những vụ xung đột gần đây giữa một số ít Phật tử với những người Hồi giáo cực đoan. Tuy nhiên, nhìn xa hơn, nhất là trong cuộc khủng bố đẫm máu tại Nalanda xưa kia, chúng ta thấy rõ, nguyên nhân chính không phải là sự xung đột, mà là sự mê muội độc tôn tôn giáo cùng với lòng tham tàn của những người tự cho rằng giết hại người không tuân theo tôn giáo mình là “thánh chiến”.
Lối ứng xử nào cho người Phật tử?
Đối trước sự tấn công khủng bố ấy, người Phật tử ắt không khỏi cảm thấy bị thương tổn, chạnh lòng. Nhưng, cho dù bị tổn thương đến thế nào đi nữa, chúng ta vẫn phải luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Đức Thế Tôn:
“Nó nhục mạ ta / hành hung đánh bại / và tước đoạt ta” / lòng ai ôm giữ / niềm oán hận ấy / thì sự hận thù / không thể nguôi ngoai (Pháp cú 3). Bởi vì: Đem sự hận thù / làm hết hận thù / thì thế giới này / từ xưa đến nay / không thể có được/ Nhưng không hận thù / để hết hận thù, / thì là định luật / của các Hiền thánh / ngàn xưa đến nay (Pháp cú 4). Lời dạy ấy tuy đơn giản nhưng gói trọn tinh hoa của Phật: từ bi - trí tuệ - xả ly - an nhẫn.
Sau khi Bồ Đề Đạo Tràng bị đánh bom khủng bố, bằng lòng từ bi - trí tuệ, người con Phật thể hiện lòng thương xót của mình trước hành động dã man của người gây ra vụ việc, tuyệt nhiên không nuôi dưỡng hận thù, không có hành động trả đũa hay kích động bạo động - Ảnh: Báo nước ngoài
Thực ra, trong từ bi vốn sẵn có trí tuệ; có trí tuệ mới có thể xả ly; có xả ly mới có được an nhẫn (hay nhẫn nhục). Nhẫn nhục là một hạnh tu quan trọng bậc nhất của Phật giáo. Trong lời dạy cuối cùng, Đức Phật nhấn mạnh: “Các thầy Tỷ-kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kiềm chế tâm mình, đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dữ nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Đức tính của Nhẫn, giữ giới và khổ hạnh không thể sánh bằng. Thực hành đức Nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí” (Kinh Di giáo).
Nhẫn nhục không phải là đớn hèn, cầu an hay sợ hãi. Ngược lại, đó là một hành động dũng mãnh, tinh tấn, kiên định và đầy trí tuệ. Trí tuệ là cái nhìn xuyên suốt, rõ ràng về nhân - duyên - quả. Nhân như thế nào, duyên như thế nào, thì quả như thế ấy. Đó là cái nhìn Tứ đế, là nhìn bằng con-mắt-Phật.
Thế giới đang diễn ra nhiều sự xung đột, đặc biệt tương tàn như chiến tranh, khủng bố. Do đó, niềm oán hận đã bị gieo rải khắp nơi. Nỗi oán hận này chất chồng lên nỗi oán hận khác không bao giờ được tháo gỡ. Sinh tử luân hồi tiếp nối triền miên không dứt. Cho nên, người Phật tử nhất định không gieo tiếp những hạt giống oán hận để phải gặt hái vào mùa sau.
Nếu nghĩ rằng, vì mục đích bảo vệ Phật pháp, chúng ta cần đáp trả lại những kẻ gây khủng bố bằng một cuộc khủng bố khác thì chúng ta đã nhầm. Bởi hành động xấu ác không thể đem đến kết quả tốt đẹp, và do đó, “phương tiện không thể biện minh cho cứu cánh”.
Cứu cánh, hay mục đích tối hậu của người con Phật phải là đạt được tuệ giác tối thượng như Đức Bổn Sư và chư Phật quá khứ đã làm: “đem mọi yếu tố / cầu tuệ giác Phật”, dẫu cho “bao kẻ thượng mạn / mắng nhiếc đánh đập / vẫn nhẫn được cả / để cầu trí Phật” (kinh Pháp hoa, phẩm 1). Đến như thân mạng, Bồ-tát cũng xả bỏ cho bầy cọp đói vì “để cầu Niết-bàn tối thượng và cứu cánh” (kinh Ánh sáng hoàng kim, phẩm 26). Hay Ngài cho đi đôi ngà bởi “đôi ngà Chánh đẳng Chánh giác còn đáng quý đối với ta gấp cả trăm ngàn lần đôi ngà này” (Kinh Tiểu bộ, Jataka 514).
Với cái nhìn đầy tuệ giác và với một tinh thần nhẫn nhục như lời dạy của Đức Thế Tôn trong nhiều kinh điển, người Phật tử chúng ta có thể vô úy, an nhiên vượt qua được những tai ách, như lịch sử truyền bá Chánh pháp đã minh chứng.
Rõ ràng, từ xưa đến nay, Phật giáo vẫn luôn được xem là tôn giáo của hòa bình, chưa bao giờ gây đổ máu, cho dù là vì “sự trường tồn của đạo pháp”, ngược lại, nhiều Tăng Ni, Phật tử còn sẵn sàng xả thân để thức tỉnh lương tri nhân loại. Tinh thần từ bi cao cả và trí tuệ siêu việt ấy đã khiến cho thế giới kính phục.
Do đó, trong cơn đau khổ nhất, trong cơn nguy biến nhất, người Phật tử phải an định, tỉnh thức. Không vì sự tổn thương của mình mà gây ra bất kỳ cuộc xung đột nào đối với đồng loại. Một kẻ dù bạo ác đến đâu chăng nữa thì Phật tánh vẫn luôn sẵn có trong họ, như Pháp hoa đã nói. Chúng ta hãy tin như thế!