GN - Hoằng pháp là một trong những sứ mệnh quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của một tôn giáo. Phật giáo cũng không ngoại lệ. Nghiên cứu các giai đoạn thăng trầm của hơn 2.000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam, người ta sẽ nhận ra được tầm quan trọng của công tác hoằng pháp.
Tăng Ni là ngưới phải trách nhiệm trong đường hướng hoằng pháp ở giai đoạn mới - Ảnh minh họa
Tìm hiểu nguyên nhân đưa đến giai đoạn vàng son của Phật giáo Việt Nam thời Lý Trần, chúng ta dễ dàng thấy được vai trò tích cực của công tác hoằng pháp trong thời điểm lịch sử ấy. Nhưng yếu tố nào trong công tác hoằng pháp của Phật giáo Lý Trần đã tạo nên những dấu ấn lịch sử như thế? Có thể nói rằng để có được một sự thành công như thế, hoằng pháp thời Lý Trần phải hội đủ hai yếu tố quan trọng: Nội dung hoằng pháp và con người hoằng pháp.
Tất nhiên, nội dung hoằng pháp của đạo Phật bao giờ cũng đặt nền tảng trên lời dạy của Đức Phật trong Tam tạng thánh điển; nhưng vấn đề cốt lõi đóng vai trò chủ đạo trong việc thành bại của công tác hoằng pháp bao giờ cũng là yếu tố nhân sự. Nói khác đi, nếu không có những con người đầy đủ phẩm chất cần thiết cho công tác hoằng pháp, hiệu quả của hoằng pháp sẽ rất giới hạn, nếu như không muốn nói là không có tác dụng.
Trong Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Việt Nam, nói đến công tác hoằng pháp là nói vai trò của Tăng Ni. Xét trên một khía cạnh nào đó, đây là một nét đặc thù của Phật giáo Việt Nam; nhưng xét trên tinh thần đại chúng, đây lại là một sự hạn chế, đặc biệt nếu đặt vấn đề này trong bối cảnh xã hội hiện nay. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, người viết sẽ tập trung bàn thảo về đội ngũ Tăng Ni giảng sư.
Đối với Phật giáo, khi nói đến yếu tố nhân sự là nói đến Tăng đoàn. Sự sống còn của Phật giáo trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau luôn phụ thuộc vào Tăng đoàn mà không bao giờ là những cá nhân; bởi lẽ Tăng bảo là một trong ba ngôi Tam bảo cao quý. Nhưng để có một Tăng đoàn thật sự vững mạnh, có khả năng chuyển tải giáo lý từ bi-trí tuệ, vô ngã-vị tha của đạo Phật đến với quần chúng, thành viên của Tăng đoàn phải hội đủ những yếu tố cần và đủ để xứng đáng với danh hiệu là “Sứ giả của Như Lai”. Bởi vì, sức mạnh của một tổ chức xã hội luôn luôn phụ thuộc vào phẩm chất của thành viên. Không thể có một xã hội lành mạnh khi mà những thành viên của nó sống thiếu ý tưởng, thiếu trình độ, thực dụng, bè phái, phe đảng, tham nhũng, hối lộ.
Tương tự như thế, không thể có một Tăng đoàn Phật giáo tồn tại đúng ý nghĩa khi các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni không hội đủ được những phẩm chất căn bản của một người xuất gia. Không thể có một lực lượng hoằng pháp hùng mạnh để đảm trách sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh báo Phật ân đức, nếu đội ngũ hoằng pháp coi trọng kiến thức, bỏ qua phần tự thân tu tập, quá nặng nề về hình thức, xem nhẹ phần thực chất. Bởi lẽ, phẩm chất của các hoằng pháp viên trong lãnh vực hoằng pháp đóng một vai trò vô cùng quan trọng, vì ảnh hưởng của Phật giáo tích cực hay tiêu cực, mạnh mẽ hay yếu ớt, rộng lớn hay hạn chế luôn phụ thuộc vào đạo đức, trình độ kiến thức, đặc biệt là sức mạnh nội tâm của hàng ngũ này.
Trong bối cảnh xã hội ngày nay, với sự tiện lợi của ngành công nghệ thông tin, người ta có thể tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi Phật pháp qua sách vở, hệ thống internet, website, v.v… một cách dễ dàng. Nói khác đi, xã hội ngày nay không cần quá nhiều những chuyên viên tôn giáo hay những người xem đời sống tu hành là một nghề sinh nhai, đi rao giảng những kiến thức thuần túy mà họ học hỏi, góp nhặt, thu thập, tom góp được từ trường lớp, báo đài, internet, v.v….; bởi vì, quần chúng ngày nay dường như đã khá mệt mỏi và mất niềm tin với những người hành nghề tôn giáo, rao giảng luân lý, đạo đức, vô ngã-vị tha nhưng dễ dàng thất vọng, buồn phiền khi tự ngã bị tổn thương, luôn luôn nổi sân khi địa vị, quyền lợi không được thỏa mãn…
Có lẽ, con người đương thời đang cần đến một đội ngũ tu sĩ Phật giáo chân chính, những người có thể chia sẻ kinh nghiệm hành trì, có khả năng giúp họ đi ra những rắc rối trong đời thường, có thể đem đến những phút giây an tịnh cho con người trong một xã hội đầy biến động và nhiều sức ép, có thể tạo ra niềm tin tốt đẹp và lạc quan khi người ta có cơ hội đến gần.
Theo thiển ý của người viết, để có thể đáp ứng được những yêu cầu trên, một giảng sư Phật giáo cần hội đủ các yêu cầu quan trọng sau đây:
1.Tầm nhìn:
Yêu cầu tất yếu đối với người hoằng pháp dĩ nhiên là trình độ Phật pháp. Tuy nhiên, vấn đề người viết muốn trình bày ở đây không phải kiến thức Phật học của người hoằng pháp, mà là cái nhìn thấu suốt của họ về giáo lý Phật giáo.
Làm sao để Phật giáo đi vào lòng quần chúng? - Ảnh minh họa
Một hoằng pháp viên phải là người phải hiểu biết một cách rõ ràng tầm quan trọng về phương diện lịch sử và tư tưởng của Phật giáo từ khởi nguyên đến hiện tại; bởi vì: “Nếu sự khởi nguyên của các tôn giáo thế giới là những chủ đề có ý nghĩa và rất đáng được quan tâm nghiên cứu, thì sự phát triển và mở mang của chúng cũng không kém phần quan trọng…”.
Do vậy, một hoằng pháp viên cần nhận chân một cách thấu đáo mối quan hệ hỗ tương giữa các hệ thống triết học của đạo Phật từ khởi nguyên đến các giai đoạn phát triển; vì đây là một trong những yêu cầu tất yếu cho sự tồn tại của Phật giáo giữa các nền văn hóa khác nhau. Sự hình thành và phát triển các bộ phái Phật giáo theo thời gian là nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu đa dạng của con người, mà không phải là sự phát triển mang tính cục bộ, phân loại cao thấp, bè phái riêng rẽ, không có sự nối kết với nhau. Tất nhiên, về hình thức tổ chức và phương pháp vận dụng triết lý có sự khác nhau để phù hợp với nhu cầu tri thức của con người từng thời đại, nhưng những triết lý cốt tủy của Phật giáo là không thể có sự khác nhau.
Khi được trang bị một sự hiểu biết như thế, một số quan niệm sai lầm, ngộ nhận xưa nay như Nguyên thủy hay Nam truyền Phật giáo là mới là chánh thống, Phật giáo Bắc tông hay Phát triển không phải là chánh thống; hoặc Phật giáo Nam truyền là Tiểu thừa, Phật giáo Bắc truyền là Đại thừa sẽ không có cơ sở đề tồn tại. Nói khác đi, những ý tưởng chấp thủ bộ phái, vùng miền, đại tiểu, cao thấp cần phải được chuyển hóa và loại trừ.
Tuy nhiên, trong thực tế của Tăng đoàn Phật giáo, tầm nhìn này dường như vẫn chưa được phát huy một cách tích cực; từ đó, chủ nghĩa bộ phái, khuynh hướng đề cao cá nhân đã ảnh hưởng khá rõ nét trong tư duy cũng như sinh hoạt của đại đa số đệ tử Phật. Theo thiển ý của người viết, đây có thể xem là một trong những trở lực lớn khiến hiệu quả của ngành hoằng pháp còn nhiều hạn chế.
Một thực tế quan trọng khác cần phải nhìn nhận là khả năng thích nghi của Phật giáo với những thay đổi và cải tiến không ngừng của con người và xã hội. Những thách thức mà các nền văn hóa đương thời đang đối mặt hình như chưa được giới Phật giáo nhận thức đúng mức. Trong làn sóng toàn cầu hóa hiện nay, toàn cầu hóa văn hóa là một vấn nạn mà giới Phật giáo cần phải cân nhắc thận trọng. Bởi vì nếu người ta có thói quen chuộng ngoại, đề cao mọi sản phẩm ngoại nhập, bao gồm cả sản phẩm tôn giáo, thì sự bành trướng của tôn giáo ngoại lai là một điều khó tránh được.
Sự cải đạo tín đồ Phật giáo, những sinh hoạt tôn giáo mang tính thần quyền, cầu xin, cứu rỗi… như là một vết dầu loang đang thẩm thấu từng ngày, từng giờ vào các sinh hoạt của người Phật tử là minh chứng rõ ràng cho hiện tượng này.
Hệ lụy của nó đang làm xói mòn và suy yếu dần những truyền thống tâm linh của Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh ấy, sự khủng hoảng về đạo đức, văn hóa, giáo dục… mà xã hội Việt Nam đang phải đối đầu thì giới Phật giáo vẫn chưa nhận chân đúng mức và chưa vận dụng được tinh thần trí tuệ và nhân bản qua lời Phật dạy để xây dựng một định hướng hoằng pháp trong bối cảnh văn hóa đầy phức tạp, rối ren và đầy báo động như thế.
Quan trọng hơn nữa, phần lớn tuổi trẻ ngày nay mỗi ngày một cách xa đạo Phật là một câu hỏi bức thiết cần phải được quan tâm. Có ý kiến cho rằng chùa chiền Việt Nam là nơi dành cho những người lớn tuổi và phụ nữ. Nhìn số lượng tín đồ đến chùa vào những ngày Chủ nhật, lễ vía có lẽ nhiều người có thể đồng tình với quan điểm vừa nêu. Bởi lẽ, nhà chùa vẫn là một trú xứ còn xa lạ với tuổi trẻ. Hay nói theo ngôn ngữ của tuổi trẻ, trong sân chùa không có không gian cho tuổi trẻ, bởi lẽ mọi sinh hoạt của chùa chiền hiện nay ít quan tâm hay không phù hợp với lứa tuổi này.
Thử trầm tư vào cách truyền đạo của các tôn giáo bạn! Những buổi thuyết giảng thường kỳ, những lớp giáo lý dành cho từng lứa tuổi và những sinh hoạt mang tính cộng đồng đã phát huy được niềm tin, nguồn cảm hứng và ý thức tự giác cho mọi nguời. Tín đồ của họ luôn bao gồm đủ mọi lứa tuổi, thành phần; thậm chí tuổi trẻ chiếm đa số trong các ngày lễ của họ; trong số này không thiếu thành phần thanh thiếu niên thuộc gia đình Phật tử!
Có thể thấy rằng chiến lược truyền giáo của họ là chìa khóa chính đưa đến sự thành công trên. Như thế, tương lai của Phật giáo sẽ ra sao nếu như ngành hoằng pháp không bắt kịp những chuyển biến và thay đổi về nhận thức cũng như nhu cầu của xã hội. Nói khác đi, giáo lý Phật giáo có thể làm gì để giúp cho thế hệ trẻ định hướng được lý tưởng sống trong một thế giới đầy biến động và thách thức và quá nhiều cám dỗ. Làm thế nào để thu hút được sự quan tâm của tuổi trẻ đến với đạo Phật.
Rõ ràng, đây là những vấn nạn khó có thể giải đáp thỏa đáng tức thời, mà cần phải có một nỗ lực chung để xây dựng một chiến lược hoằng pháp quy mô và hiệu quả. Cần phải nói rằng, trong định hướng cho tương lai, phương cách hoằng pháp truyền thống vẫn là một giải pháp không thể thiếu trong sứ mệnh truyền giáo, vì nó đáp ứng được một số nhu cầu thiêng liêng, bức xúc và thực tế của tín đồ. Phương cách này có thể giúp người ta giải quyết được những mất mát trong cuộc sống, làm giảm đi nỗi đau mà người ta đang gặp phải và tạo niềm tin để tín đồ có thể bước vào con đường học đạo.
Tuy nhiên, nếu chỉ có như thế thì chắc chắn Phật giáo Việt Nam không thể hoàn thành sứ mệnh truyền bá của mình; bởi vì tín đồ Phật giáo cần nhiều hơn thế nữa! Họ cần những giá trị thực tiễn mà giáo lý nhà Phật có thể giúp họ lấy lại sự quân bình giữa cuộc đời đầy chao đảo, cảm nhận được sự an lạc nội tại giữa muôn vàn sự cám dỗ của thế giới vật chất, định hướng được tương lai mà cần đến. Làm thế nào để ngôi chùa sẽ trở thành chỗ nương tựa mỗi khi họ cảm thấy mất niềm tin giữa cuộc sống! Làm thế nào để họ có những cảm giác bình an mỗi khi rời cổng chùa, và cảm thấy tự tin trước lý tưởng sống của mình trước nhiều chọn lựa. Đây có lẽ là những ẩn số cần phải được giải đáp trong sự nghiệp truyền bá Phật pháp.
Có phải chăng các bậc tiền nhân của chúng ta đã tìm được giải pháp tương đối thỏa đáng cho những câu hỏi vừa nêu trên khi những hạt giống Phật pháp đã được gieo trồng một các vững chắc tại các vùng đất văn minh? Đâu là tinh thần cốt lõi của Phật giáo quốc tế trong việc truyền bá giáo lý Phật giáo tại những vùng đất văn minh này? Làm thế nào để Phật giáo đã và đang phát triển một cách vững chắc ở miền đất hứa của tôn giáo phương Tây. Tại sao càng ngày các trung tâm thiền định Phật giáo lại càng phát triển?
Tại sao các khóa thiền của các thiền sư kéo dài hàng tuần, hàng tháng lại luôn luôn thu hút một lượng hành giả (không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, giàu nghèo...) đến tu học. Loại sách gì về Phật giáo đang trở thành sách bán chạy nhất tại các đất nước mệnh danh văn minh này? Sức mạnh tâm linh nào của các nhà truyền giáo Phật giáo có thể làm lay động được cái nhìn của giới trí thức, lãnh đạo và giàu có của các vùng đất văn minh? Thiết nghĩ, đây có lẽ là những nguồn tham chiếu cần thiết cho Phật giáo Việt Nam trong định hướng phát triển của mình.
2. Khả năng vận dụng
Tính bản địa hóa hay địa phương hóa Phật giáo là một yếu tố quan trọng đối với sứ mệnh phát triển Phật giáo. Trên bình diện tuyệt đối, đạo Phật không hề khoác bất cứ nhãn hiệu nào, ngoại trừ ý nghĩa là con đường thoát khổ, hay là “một nghệ thuật sống”. Tuy nhiên, trên bình diện thế gian, đạo Phật luôn có tên gọi riêng cho chính mình mỗi khi truyền bá vào một quốc gia hay xứ sở; ví dụ Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Thái Lan...
Một buổi lễ dành cho Phật tử Hà Nội
Nói khác đi, trong quá trình hội nhập và phát triển, giáo lý Phật giáo và văn hóa bản địa luôn có một sự giao thoa tương tác để từ đó tạo ra một bản sắc mới cho chính Phật giáo và nền văn hóa ấy. Đây chính là tài sản vô giá đối với từng dân tộc, từng quốc gia, xứ sở. Chắc chắn, người Việt Nam sẽ chỉ bảo vệ và giữ gìn những tài sản nào mang thuộc tính Việt Nam; đó là Lịch sử Việt Nam, Văn hóa Việt Nam, Phật giáo Việt Nam, mà không thể là của Trung Hoa, Nhật Bản, v.v...
Như thế, người hoằng pháp cần phải có những kiến thức cơ bản về lịch sử và đặc tính văn hóa của từng vùng miền cụ thể, để từ đó mới có chương trình hoằng pháp thích hợp với căn cơ, trình độ và đặc tính văn hóa từng địa phương. Chính đặc tính bản địa này tạo nên một sức sống lâu dài cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc và đạo pháp.
Trong Phật giáo, kiến thức và khả năng vận dụng này được gọi là tinh thần phương tiện thiện xảo. Tuy nhiên, trong quá trình “phương tiện” để phục vụ mục tiêu hoằng pháp, “thiện xảo’ để đưa đạo vào đời, để bảo tồn tính văn hóa dân tộc trong đạo, hoằng pháp viên không thể bỏ qua ý nghĩa “tùy duyên nhi bất biến” của Phật giáo; nghĩa là không thể đánh mất tinh thần trí tuệ-giải thoát của đạo Phật cho dù có đạt được bất cứ kết quả gì trong hiện tại. Bởi lẽ, nếu đạo Phật mà không có tính chất trí tuệ-giải thoát thì dễ bị đồng hóa thành một loại tín ngưỡng hay tôn giáo thuần túy với chức năng chính là cúng kiếng và cầu nguyện. Văn hóa dân tộc mà không được phát huy và bảo tồn tinh thần trong sáng của nó thì không sớm thì muộn cũng sẽ bị tha hóa.
Nhưng trong các hình thức sinh hoạt của Phật giáo hiện nay, đặc biệt là trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, dường như đã có quá nhiều hủ tục, tập quán mang tính đồng bóng, thần quyền, mê tín, dị đoan đang chiếm ưu thế. Khuynh hướng cầu nguyện và cúng kiếng đã trở thành sinh hoạt chính của Tăng Ni và Phật tử. Nghi lễ, xin xăm, bói toán, coi ngày tốt xấu… trở nên nghề thịnh hành trong giới nhà chùa. Những lời dạy mang tinh thần giác ngộ, giải thoát, tự giác, giác tha đã được thực dụng hóa bằng thuật ngữ “phương tiện”, v.v…
Nguyên nhân là vì vai trò và nhiệm vụ hoằng pháp của nhiều tỉnh thành Phật giáo trong cả nước dường như rất mờ nhạt và chưa thực sự có ảnh hưởng lớn trong đời sống của quần chúng tín đồ. Ngành hoằng pháp chưa định hình được phương hướng hoằng pháp rõ ràng cho từng đối tượng, từng lứa tuổi.
Theo cái nhìn người viết, hoạt động của Ban Hoằng pháp tại các tỉnh thành Phật giáo hiện nay có vẻ mang tính phong trào, thời vụ trong các ngày lễ lớn, hoặc các khóa tu mùa hè cho thanh thiếu niên…, thậm chí một số tỉnh thành không hề có chương trình thuyết giảng vào thời gian nêu trên. Nội dung hoằng pháp chưa có tính chiến lược lâu dài, đặc biệt là chưa có chương trình giảng dạy và hướng dẫn cụ thể dành cho đối tượng thanh thiếu niên. Ngay cả sinh hoạt của Gia đình Phật tử, vai trò của các ban ngành thuộc Giáo hội cũng chỉ mang tính trách nhiệm tượng trưng, hình thức, thiếu sự quan tâm, cưu mang, nuôi dưỡng tầng lớp Phật tử quan trọng này.
Đã đến lúc các vị lãnh đạo của Phật giáo Việt Nam, cụ thể là Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Hoằng pháp, Ban Văn hóa, Ban Hướng dẫn Phật tử cần xác định và phát huy những nét đặc thù nào của giáo lý Phật giáo và văn hóa dân tộc, những thức ăn tinh thần gì mà giới tín đồ Phật giáo Việt Nam với sự khác biệt về tuổi tác, trình độ, sở thích, môi trường sống khác nhau (giữa thành thị và thôn quê) đang cần trong bối cảnh xã hội ngày nay để từ đó trang bị cho giảng sư đoàn của Giáo hội đầy đủ những nhu yếu vừa nêu. Có như thế vai trò hoằng pháp mới hoàn thành được trọng trách đầy thiêng liêng và ý nghĩa của mình.
3. Hành trang của người hoằng pháp
Một chuyển biến quan trọng trong hệ thống hoằng pháp qua thời gian gần đây là sự đóng góp của các Tăng Ni trẻ vào các tổ chức cũng như sinh hoạt của Phật giáo. Sự tham gia của một số Tăng Ni trẻ này đã tạo nên một sinh khí mới trong việc đưa đạo vào đời qua các công tác từ thiện, hoằng pháp ở các vùng sâu vùng xa; rõ nét nhất là các tổ chức trại hè dành cho giới thanh thiếu niên.
Ngày càng có nhiều thanh thiếu niên tới chùa học Phật
Rõ ràng, hiệu quả của các hoạt động này đã có một số tác động nhất định đối với xã hội; bởi lẽ nhu cầu được sinh hoạt trong các môi trường như thế mỗi ngày mỗi lớn và đã có nhiều phản ứng tốt đẹp về sinh hoạt này. Tuy nhiên, việc làm này dường như chỉ mang tính tự phát, lẻ tẻ của những cá nhân mà chưa có một hệ thống tổ chức thật sự. Vả lại, trong sứ mệnh hoằng pháp, ngoài những kiến thức thu hoạch được tại nhà trường và xã hội cũng như bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, kinh nghiệm tâm linh mới là yếu tố thiết yếu đối với người hành đạo.
Có thể nói rằng đây là phẩm chất quan trọng nhất, là hành trang đòi hỏi cần và đủ đối với một tu sĩ Phật giáo nói chung, và người hoằng pháp nói riêng. Tất nhiên, nội lực này không phải do nghiên cứu thuần túy hay học tập mà có được; nhưng nó là thành quả của một quá trình tu tập và ứng dụng giáo lý của Đức Phật vào trong đời sống hàng ngày ngang qua ba nghiệp thân khẩu ý. Nó chính là chất liệu từ bi-trí tuệ của đạo Phật được tẩm ướt và thẩm thấu vào thân tâm, tạo nên tư cách của một tu sĩ Phật giáo kiểu mẫu về đạo đức và trí tuệ của đạo Phật như kinh Pháp cú dạy:
“Hương thơm các loại hoa Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh Ngược gió khắp tung bay, Chỉ có bậc chân nhân Tỏa khắp mọi phương trời”.Chính sự biểu hiện tinh thần tri hành hợp nhất, nói sao làm vậy, làm sao nói vậy từ cuộc sống của những nhân cách này sẽ khiến cho niềm tin của tín đồ, quần chúng trở nên kiên cố đối với Phật pháp như lời Đức Phật dạy: “Này Ưu Ba Li (Upali), do mười mục đích các học pháp được thiết lập cho các đệ tử Như Lai và giới bổn Patimokkha được tuyên đọc? Thế nào là mười?... Để đem lại tịnh tín cho những người không tin (những người chưa có lòng tin Phật, chưa hiểu pháp sẽ có lòng tin nhờ cuộc sống đúng như pháp, như luật của hàng ngũ Tỷ-kheo); Để làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lòng tin (những người hiểu pháp, có lòng tin Tam bảo sẽ có an lạc, hoan hỷ khi thấy giới luật của Như Lai được khéo hộ trì...”).
Đây chính là nội dung của cái gọi là “sức mạnh nội tâm” của một hành giả Phật giáo. Sức mạnh này sẽ phát ra một năng lượng gọi là từ trường, có khả năng chuyển hóa nội tâm những người đang bị bối rối bởi chính dục vọng của mình, đang trải nghiệm khổ đau bởi lòng sân hận và chấp thủ của tự thân. Sức mạnh nội tâm này như một cơn mưa giữa mùa hạ, nhanh chóng làm dịu đi cái nóng oi bức tạo nên sự bất an, khó chịu cho mọi loài.
Một hành giả chân chính của Phật giáo luôn là cộng nghiệp tốt cho cộng đồng và xã hội; bởi vì cứ mỗi lần được tiếp xúc, thân cận, gần gũi với những con người chân chính này, cảm giác bình an, thư thái, thanh thản, nhẹ nhàng sẽ sinh ra trong tâm của người ta bởi vì hương vị giải thoát của tâm vô tham, vô sân, vô si của chính hành giả tỏa ngát khiến cho tâm hồn của người ta cảm thấy lắng dịu mọi ưu phiền, lo lắng. Có lẽ đây là những phẩm chất mà nhân loại đang cần, và cũng là ưu điểm của những tu sĩ chân chính của Phật giáo có thể đóng góp cho cuộc đời. Đây cũng chính là khát khao, hoài vọng mà những con người văn minh Âu Mỹ đang cần khi họ phát biểu rằng: “Giá trị chân chính không phải là cái con người đang có, mà giá trị đích thực là chính những gì họ đang sống”.
Rõ ràng, giáo lý Phật giáo có thể sản sinh ra những giá trị như thế! Bởi vì, thế giới Âu Mỹ đã thật sự tâm phục, khẩu phục khi nhận thức rõ ràng rằng những giá trị mà họ mong ước đã được thể hiện hoàn toàn qua cuộc đời Đức Phật. Những lời phát biểu sau đây của Hermann Hess, giải Văn chương Nobel, sẽ minh chứng cho quan điểm này, “…Nhưng nội dung tri thức của lời Phật dạy chỉ là một nửa của sự đóng góp của Ngài. Nửa còn lại là đời sống của Ngài, đời sống thực mà Ngài sống…
Thực vậy, Đức Phật đã hoàn tất việc rèn luyện chính mình và đem áp dụng cho các đệ tử. Ngài đã xác định một mục tiêu và đã đạt được những kết quả mà các nhà hành động chân chính nổi danh của phương Tây phải ngả mũ kính phục”, và “Đức Phật là hiện thân của tất cả những đức hạnh mà Ngài giảng dạy. Trong suốt 45 năm thuyết giảng thành công và sinh động, Đức Phật đã thể hiện lời nói của mình bằng hành động”.
Thiền thất Từ Mãn