Trong ANCL, tính cả các văn thư ở phần Biểu chương và Tiền đại thư biểu (Thư, biểu của các đời trước), có 7 văn thư.
Trong NS, ngoài 5 đoạn trích quá ngắn cùng 1 đoạn trích thuộc văn thư năm Chí Nguyên thứ 15 đã có trong ANCL, tất cả có 8 văn thư (đoạn trích). TNHK có 6 văn thư. TCTTT có 5 văn thư (3 văn thư gửi Hốt Tất Liệt được gộp chung thành An Nam tiến Vạn thọ tụng tịnh biểu tấu). Qua 4 nguồn tư liệu trên ta có 26 văn thư ngoại giao thời Trần (trong đó có văn thư chỉ là những đoạn trích).
Trong tổng số 26 văn thư đã đề cập có văn thư ghi rõ tên tác giả (hay đúng hơn là vị vua đại diện cho vương triều Đại Việt gửi các vua nhà Nguyên), song có văn thư chỉ ghi một cách chung chung, như “An Nam Trần” (họ Trần nước An Nam), có văn thư lại hoàn toàn chỉ ghi ngày tháng, không có tên tác giả, thậm chí có văn thư chỉ là các đoạn trích, không ghi tác giả, niên đại. Vậy phải làm thế nào để tìm ra các văn thư ngoại giao của Trần Nhân Tông trong số 26 văn thư đó? Lê Mạnh Thát trong sách Toàn tập Trần Nhân Tông (5) đưa ra 22 văn thư của Trần Thánh Tông, gồm các văn thư sau đây:
1 Lá thư tháng Mười một nhuận năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
2a Tờ biểu tháng Mười hai năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
2b Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 15 (1278)
4 Lá thư tháng Ba năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh
5 Lá thư tháng Mười năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho Thoát Hoan
6 Thư tháng Mười năm Chí Nguyên thứ 21 (1284), gửi cho Thoát Hoan
7 Lá thư tháng Ba năm Chí Nguyên 23 (1286)
8 Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 25 (1288)
9 Tờ biểu tháng Tư năm Chí Nguyên thứ 26 (1289)(6)
10 Tờ trạng tháng Ba năm Chí Nguyên 26 (1289)
11 Thư tháng Ba năm Chí Nguyên 26 (1289)
12 Thư tháng Ba năm Chí Nguyên 26 (1289)
13 Tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 29 (1292)
14 Thư ngày 13 tháng Giêng năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
15 Thư ngày 21 tháng Hai năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
16 Thư ngày 25 tháng Hai năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
17 Thư ngày 1 tháng Ba năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
18 Nguyên nước An Nam dâng bài ca Vạn thọ cùng biểu và tấu [năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)]
19 Tờ biểu ngày Tư tháng Ba năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
20 Tờ tâu ngày Tư tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293)
21 Tờ biểu năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295)
22 Tờ biểu xin Đại Tạng kinh [năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295)]
Về niên đại 22 văn thư trong Toàn tập Trần Nhân Tông, văn thư đầu tiên viết vào năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), lá thư thứ 21 (từ đây số thứ tự các văn thư giữ nguyên như trong Toàn tập Trần Nhân Tông) là năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295). Văn thư cuối cùng không có tác giả, niên hiệu.
Về nội dung, đây là tờ biểu của vua Trần gửi nhà Nguyên để xin bộ kinh Đại tạng. Theo Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT), năm Hưng Long thứ 3 (1295), tức năm Nguyên Trinh thứ nhất nhà Nguyên, “Mùa xuân tháng Hai, ngày mồng 1, sứ Nguyên là Tiêu Thái Đăng sang, vua sai Nội viên lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo cùng đi với, thu được bộ kinh Đại tạng đem về, để ở phủ Thiên Trường, in bản để lưu hành”.
Trong văn thư này cũng có ghi: “Thần ở cõi viêm bang hoang vu, sớm đã quy y Phật pháp, chuộng kinh lá bối truyền tự Trung Hoa. Thời Đường - Tống trước đây, chở kinh sang bằng đàn ngựa trắng. Ngày đại binh kéo đến, lửa thiêu hóa đống tro tàn”.
“Ngày đại binh kéo đến” chỉ việc quân Nguyên sang xâm lược nước ta, kết hợp với ghi chép trong ĐVSKTT đây có lẽ chỉ đợt xâm lược lần thứ ba vào năm 1288.
Từ những thông tin trên cho phép đoán định đây chính là văn thư của vua Trần gửi vua Thành Tông nhà Nguyên vào năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295), cùng năm, cùng một tác giả với tờ biểu mừng Thành Tông mới lên ngôi. Như vậy văn thư này cũng viết năm 1295.
Từ năm 1278 đến năm 1293 là thời gian vua Trần Nhân Tông đang tại vị. Như vậy, rõ ràng tác giả Toàn tập Trần Nhân Tông đã coi đây là một tiêu chí quan trọng để xác định tác giả của 22 văn thư nói trên. Cách xác định như vậy có đúng không? Để làm sáng tỏ vấn đề này, trước hết ta hãy thử xem tên tác giả ghi trong 22 văn đó.
Các văn thư thứ 7, 8, 9, 10, 11, 12 đều ghi rõ tác giả là Trần Nhật Huyên. Chẳng hạn văn thư thứ 8 (Tờ biểu năm Chí Nguyên 25 - 1288) có câu: “Vi thần, thế tử nước An Nam Trần Nhật Huyên... dâng lời lên Hoàng đế bệ hạ”.
Văn thư thứ 9 (Tờ biểu tháng Tư năm Chí Nguyên thứ 25 - 1288) ghi rõ: “Thế tử nước An Nam là vi thần Trần Nhật Huyên... dâng lên Hoàng đế bệ hạ”… Trong khi đó các văn thư 19, 20 lại ghi tác giả là Trần Nhật Tôn (cả thảy 17 lần xưng là Nhật Tôn).
Chẳng hạn văn thư thứ 20 - Tờ tâu ngày 4 tháng 3 năm Chí Nguyên thứ 30 (1293) - ghi: “Bề tôi nước An Nam là Trần Nhật Tôn kính cẩn… dâng lời”). Rõ ràng danh nghĩa tác giả của các văn thư này đã khác nhau, không phải một người. Vậy trong quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên, phải chăng Trần Nhân Tông đã đồng thời dùng hai tên khác nhau?
Hay nói cách khác, “Nhật Huyên và Nhật Tôn chính là những tên gọi khác nhau của vua Trần Nhân Tông” như tác giả Toàn tập Trần Nhân Tông đã khẳng định. Để làm sáng tỏ vấn đề, ta hãy khảo cứu xem Trần Nhật Huyên và Trần Nhật Tôn có phải là tên gọi của Trần Nhân Tông hay không.
Về tên của các vua nhà Trần, ĐVSKTT ghi rõ: Trần Thái Tông tên là Cảnh, Thánh Tông tên là Hoảng, Nhân Tông tên là Khâm, Anh Tông tên là Thuyên… (Trong các tên đều có bộ “hỏa” hoặc bộ “nhật”). Như vậy, theo chính sử nước ta, các vua Trần không ai có tên là Trần Nhật Huyên hay Trần Nhật Tôn. Rõ ràng trong quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên, các vua nhà Trần đã không dùng tên thật của mình.
Khảo sát NS, đầu phần An Nam truyện ghi: “Tháng Hai năm Mậu Ngọ, niên hiệu Nguyên Hiến Tông thứ 8 (1258), Nhật Cảnh truyền quốc cho con trưởng là Quang Bính, đổi niên hiệu là Thiệu Long” (Bát niên Mậu ngọ nhị nguyệt, Nhật Cảnh truyền quốc vu trưởng tử Quang Bính, cải nguyên Thiệu Long). Nhật Cảnh tức Trần Thái Tông, Thiệu Long (1258-1272) là niên hiệu của Trần Thánh Tông. Vậy phải chăng Quang Bính là Thánh Tông?
Thực ra ở điểm này NS có sự nhầm lẫn. Sở dĩ ta có thể biết chắc chắn như vậy vì ngay trong phần An Nam truyện, ở đoạn khác ghi rõ: “Năm Chí Nguyên thứ 14 (1277), Quang Bính chết, người trong nước lập Thế tử Nhật Huyên lên thay” ([Chí Nguyên] thập tứ niên, Quang Bính tốt, quốc nhân lập kỳ thế tử Nhật Huyên). Năm 1277 là năm Thái Tông mất. Vậy Quang Bính chính là Trần Thái Tông.
Một đoạn khác trong NS lại ghi: “Năm Chí Nguyên thứ 27 (1290), Nhật Huyên chết, con là Nhật Tôn sai sứ tới cống” ([Chí Nguyên] nhị thập thất niên, Nhật Huyên tốt, tử Nhật Tôn khiển sứ lai cống). Trần Thánh Tông mất năm 1290. Vậy Nhật Huyên chính là Thánh Tông.
Từ các thông tin trên đây, ta có được kết quả sau: Quang Bính sinh ra Nhật Huyên, Nhật Huyên sinh ra Nhật Tôn. Trong văn thư thứ 20, tác giả Nhật Tôn cho biết “ông nội của thần là Quang Bính…”.
Từ đó suy ra Nhật Tôn chính là Trần Nhân Tông. Do vậy, khẳng định “Quang Bính chính là vua Trần Thánh Tông” như tác giả Toàn tập Trần Nhân Tông là không chuẩn xác.
Tuy nhiên, chúng ta đều biết rằng NS là một bộ sử có nhiều thông tin sai lầm. Đối với các văn thư ngoại giao thời Trần, muốn xác định tác giả của chúng, ngoài việc dựa vào các bộ sử, cần khảo sát thêm trên chính các văn thư đó.
Trong tờ biểu năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), tác giả ghi rõ: “Suốt cuộc đời, cha thần được nhận ân đức cao dày. Năm Chí Nguyên thứ 14 (1277), cha thần chẳng may qua đời”. Năm 1277, Trần Thái Tông mất. Từ đó có thể biết tác giả văn thư này là Trần Thánh Tông. Do Trần Thái Tông mới mất nên trong các văn thư viết vào các năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), 20 (1284)… tác giả nhiều lần dùng từ “cô thần”, “cô tử”…
Trong lá thư viết tháng Mười một năm Chí Nguyên 20 (1284) gửi Bình chương chính sự A Lí Hải Nha, tác giả viết: “Còn về lời dạy bảo kẻ côi cút này tự mình đến nơi cửa khuyết để vâng lời giáo huấn, như lúc cha già còn sống thiên triều đã xót thương mà cho được ngoài quy định. Nay cha già đã mất, kẻ côi cút này đang chịu tang, nhiễm bệnh đến nay con chưa hồi phục”. Các chi tiết đã nêu đều chứng tỏ tác giả các văn thư trên là Trần Thánh Tông.
Trong tờ biểu viết tháng Tư năm Chí Nguyên thứ 26 (1289), tác giả Trần Nhật Huyên viết: “Trước đây quốc thúc là Di Ái trốn mất ở biên giới khiến thần bị vu là tự ý giết hại. Tiếp đến, đứa em giữa là Ích Tắc tự đến đại quân để xin hàng…”.
Trần Di Ái là con thứ tư của Trần Thừa, em ruột Trần Thái Tông. Nhật Huyên gọi Trần Di Ái là chú. Từ đó suy ra Nhật Huyên chính là Trần Thánh Tông. Trần Thái Tông sinh ra Trần Hoảng (Trần Thánh Tông), Trần Quang Khải, Trần Nhật Vĩnh, Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật.
Chính vì vậy Thánh Tông mới gọi “Ả Trần” là “em giữa”. Khảo sát nội dung các văn thư cho thấy kết luận “Nhật Huyên và Nhật Tôn chính là những tên gọi khác nhau của vua Trần Nhân Tông” như tác giả Toàn tập Trần Nhân Tông đã đưa ra là không chuẩn xác.
Tổng hợp từ các cứ liệu trên đây, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng Quang Bính chính là Trần Thái Tông, Nhật Huyên là Trần Thánh Tông, còn Nhật Tôn là Trần Nhân Tông (Trong các tên cũng đều có bộ “hỏa” hoặc bộ “nhật”). Như vậy, các vua nhà Trần trong quan hệ với nhà Nguyên đều dùng tên riêng, “có tính chất chuyên dụng”, cụ thể như sau:
Trần Thái Tông (Trần Cảnh) - lấy tên là Quang Bính.
Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) - lấy tên là Nhật Huyên.
Trần Nhân Tông (Trần Khâm) - lấy tên là Nhật Tôn(7).
Dùng “tên chuyên dụng” trong quan hệ ngoại giao của các vua Trần làm tiêu chí để xác định tác giả các văn thư (tiêu chí thứ nhất), về danh nghĩa tác giả, các văn thư 7, 8, 9, 10, 11, 12 (mang tên Nhật Huyên) đều là của vua Trần Thánh Tông.
Trong số 5 văn thư thuộc TCTTT chỉ có văn thư mang tên An Nam quốc tiến Vạn thọ tụng tịnh biểu tấu có ghi tác giả là Nhật Tôn, vậy văn thư này là của Trần Nhân Tông (Văn thư mang tên An Nam quốc tiến Vạn thọ tụng tịnh biểu tấu tương ứng với các văn thư 18, 19, 20 trong Toàn tập Trần Nhân Tông).
Điều này chứng tỏ rằng nếu coi Nhật Huyên và Nhật Tôn là các tên khác của Trần Nhân Tông, đồng thời dùng thời gian vua Trần Nhân Tông tại vị làm tiêu chí để xác định tác giả các văn thư ngoại giao trong giai đoạn từ năm 1278 đến 1293 như tác giả Toàn tập Trần Nhân Tông đã làm là thiếu chuẩn xác.
Ngoài ra, cũng theo sự ghi chép trong phần An Nam truyện của NS, tờ biểu viết vào tháng Giêng năm Chí Nguyên thứ 12 (1275) xin bãi bỏ chức Đạt lỗ hoa xích (quan do nhà Nguyên cử sang nước ta để giám sát tình hình) là của Quang Bính, tức Trần Thái Tông (Đây cũng là văn thư muộn nhất của Trần Thái Tông hiện còn); trong khi đó, vào năm 1258 Trần Thái Tông đã nhường ngôi cho Thánh Tông.
Tương tự như vậy, các văn thư 7, 8, 9, 10, 11, 12 được viết từ năm Chí Nguyên thứ 23 (1286) đến Chí Nguyên thứ 26 (1289) đều ghi rõ tác giả là Nhật Huyên, tức vua Trần Thánh Tông (năm 1289 là niên đại muộn nhất của các văn thư mang tên Trần Thánh Tông hiện còn); trong khi đó, ngay từ năm 1278, Trần Thánh Tông đã nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm (tức Trần Nhân Tông) để lên làm Thái thượng hoàng. Qua đó có thể thấy rằng các vua Trần mặc dù đã truyền ngôi cho con để lên làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn lấy danh nghĩa là ông vua đương quyền trong quan hệ bang giao với nhà Nguyên.
Tờ biểu viết năm Chí Nguyên thứ 29 (tức năm 1292. Văn thư này tương ứng với văn thư thứ 13 trong Toàn tập Trần Nhân Tông) được chép lại trong ANCL vốn không ghi tác giả. Tuy nhiên, xét về thời gian, lúc này Thánh Tông đã mất, Anh Tông chưa lên ngôi, do vậy tác giả văn thư này chỉ có thể là Trần Nhân Tông. Đây cũng là văn thư sớm của Trần Nhân Tông hiện còn.
Trong tờ biểu trên, Trần Nhân Tông lấy danh nghĩa là quốc chủ một nước để gửi thư cho nhà Nguyên, nhưng do việc ông lên làm vua vốn chưa được nhà Nguyên “thông qua”, nên trong văn thư này, Nhân Tông biện bạch rằng “Việc này khi sinh thời cha thần đã từng sai sứ tâu lên, thần lúc ấy chưa tham dự chính sự, vốn không được biết…”.
Lại viết: “Đến đời thần, tự tiện thay cha giữ đất…”, “thần vì tội ngộ tiếm, nên vào tháng Chín năm Chí Nguyên thứ 27 (1290, tức sau khi Thánh Tông mất), đã sai bọn Trung Lượng đại phu Nghiêm Trọng Duy và Hữu Vũ đại phu Trần Tử Trường mang cống vật vào cửa khuyết dâng tiến, trên là tỏ lòng thành thờ trời, dưới là để nối chí tiền nhân”.
Như vậy, rõ ràng trước khi Trần Thánh Tông mất (tức trước năm 1290), các văn thư ngoại giao với nhà Nguyên đều lấy danh nghĩa là Trần Thánh Tông; mặc dù Trần Nhân Tông đã lên ngôi từ nhiều năm trước (từ 1278), nhưng việc này chỉ là việc trong nội bộ, không hề thông báo cho nhà Nguyên. Rõ ràng, Đối với nhà Nguyên, chỉ khi một vua An Nam nào đó chết thì người kế vị mới bắt đầu có danh nghĩa chính thức trong quan hệ ngoại giao.
Theo tiêu chí này (tiêu chí thứ hai), ta xác định được 4 văn thư còn lại trong TCTTT (đều viết năm 1293, gửi Lương Tăng), tương ứng với các văn thư 14, 15, 16, 17 trong Toàn tập Trần Nhân Tông; cùng 3 văn thư khác trong ANCL, tương ứng với các văn thư 13 (là tờ biểu gửi Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt), 21, 22 (niên đại văn thư 22 đã trình bày ở đoạn trên) đều thuộc tác giả Trần Nhân Tông.
Như vậy, Trần Nhân Tông hiện còn 8 văn thư ngoại giao, tương ứng với 10 trong số 22 văn thư được Lê Mạnh Thát đưa ra trong Toàn tập Trần Nhân Tông (gồm các văn thư thứ: 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22), 10 văn thư này thuộc về 2 nguồn: 7 văn thư (các văn thư 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20) thuộc TCTTT và 3 văn thư (13, 21, 22) thuộc ANCL .
Vậy 12 văn thư còn lại trong Toàn tập Trần Nhân Tông thuộc về tác giả nào? Các văn thư còn lại được viết từ năm 1278 đến năm 1289. Như đã chứng minh ở trên, trong số này, có 6 văn thư viết từ năm 1286 đến 1289 (tương ứng với các văn thư 7, 8, 9, 10, 11, 12 trong Toàn tập) ghi rõ tên tác giả là Nhật Huyên.
Vậy, theo tiêu chí thứ nhất, chúng đều là của Trần Thánh Tông. Trần Thái Tông mất năm 1277, Trần Thánh Tông mất năm 1290. Như vậy, theo tiêu chí thứ hai, tất cả 12 văn thư trong khoảng thời gian từ 1278 đến 1289 đều thuộc tác giả Trần Thánh Tông. Hay nói cách khác, các văn thư từ 1 đến 12 trong Toàn tập Trần Nhân Tông, chỉ cần dùng riêng tiêu chí thứ hai cũng đủ để xác định tác giả của chúng là Trần Thánh Tông.
Riêng các văn thư từ 1 đến 6, do không ghi rõ tác giả, do vậy, để chắc chắn, ta có thể kiểm tra lại. Sáu văn thư này về cơ bản đều nằm trong NS, riêng văn thư 2b thuộc ANCL. Các văn thư thuộc NS phần lớn đều không toàn vẹn, thường chỉ là các đoạn trích.
Trước khi trích dẫn, NS đều ghi rõ tác giả. Trong trường hợp này, NS ghi tác giả là Nhật Huyên, tức Trần Thánh Tông. Chẳng hạn văn thư thứ nhất, là thư viết tháng Mười một nhuận, năm Chí Nguyên thứ 15 (1278), toàn văn như sau: “Nay hay tin Quốc công hạ cố đến tệ quốc, dân vùng biên cảnh không ai không kinh sợ, chẳng rõ là sứ giả người nước nào mà lại đến đây? Vậy xin hãy rút quân về để tiến theo đường cũ”.
Văn thư này không ghi tên tác giả, không niên đại, là một đoạn trích trong NS, thông qua lời dẫn của NS chúng ta mới biết được niên đại của nó. Về hoàn cảnh ra đời của văn thư này, theo lời dẫn của NS: Trần Thái Tông mới mất, vua Nguyên sai Thượng thư bộ Lễ là Sài Thung (NS ghi là Sài Xuân) cùng quan Trung lang bộ Công là Lí Khắc Trung sang nước ta, mang theo chiếu dụ vua Trần Thánh Tông (Nhật Huyên) vào chầu.
Nhóm Sài Thung theo đường từ Giang Lăng đến Ung Châu để vào Giao Chỉ. Tháng Mười một nhuận, sứ Nguyên đến trại Vĩnh Bình thuộc châu Ung, Trần Thánh Tông sai người đưa thư tới. Như vậy, tác giả văn thư này rõ ràng là Trần Thái Tông.
Về tác giả của văn thư thứ 2b. Đây là tờ biểu do đích thân “Thế tử nước An Nam, cô thần họ Trần” gửi hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vào năm Chí Nguyên thứ 15 (1278). Văn thư này được ghi lại trong phần Biểu chương sách ANCL.
Vào năm này, Trần Nhân Tông đã lên ngôi, song xét nội dung văn thư, đặc biệt là câu “Năm Chí Nguyên thứ 14 (1277), cha thần chẳng may qua đời”, cho thấy, hai chữ “cha thần” ở đây chính là chỉ Trần Thái Tông (Thái Tông mất năm 1277). Vậy đây rõ ràng là văn thư của Trần Thánh Tông. Cũng vì năm trước Thái Tông qua đời nên Thánh Tông tự xưng mình là “cô thần”(8).
Tương tự như vậy, trong 4 bức thư gửi bọn Lương Tăng năm 1293, Trần Nhân Tông nhân cha mình mới mất cũng tự xưng mình là “cô”, “cô tử”, khiến bọn Lương Tăng, Trần Phu rất hậm hực mà không thể làm gì được(9).
Tóm lại, dựa vào hai tiêu chí như chúng tôi đã nêu, có thể dễ dàng xác định được trong số 22 văn thư được Lê Mạnh Thát đưa vào Toàn tập Trần Nhân Tông chỉ có 10 văn thư của Trần Nhân Tông, 12 văn thư đầu tiên thuộc Trần Thánh Tông. Vậy cần sớm loại 12 văn thư này ra khỏi bộ Toàn tập để tránh sự nghiên cứu nhầm lẫn.