Hướng đi nào cho việc phát huy giá trị di sản tư liệu Phật giáo Việt Nam?

0:00 / 0:00
0:00
GNO - Trong số các loại hình di sản văn hóa hiện tồn ở Việt Nam, tư liệu là một loại hình đặc biệt phong phú, đồ sộ, thể hiện trên cả 2 dạng thức vật thể và phi vật thể.

Theo định nghĩa của chương trình Ký ức thế giới (Memory of the World, viết tắt là MOW) được UNESCO cho ra đời vào năm 1994, di sản tư liệu là một thuật ngữ nhằm để chỉ những tài liệu, tư liệu mang giá trị đặc biệt, có ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới.

Ảnh: Phùng Anh Quốc

Ảnh: Phùng Anh Quốc

Về hình thức, di sản tư liệu có thể ở dạng văn bản như: bản thảo, sách, báo, áp phích, thư từ, tập tin máy tính…; các bản vẽ, bản đồ, bản nhạc, sơ đồ, đồ họa… được ghi lại bằng bút mực, bút chì, sơn, con số hoặc các chất liệu khác; tài liệu nghe nhìn như: đĩa âm thanh, băng từ, phim, ảnh… Vật mang thông tin có thể là giấy, nhựa, da, lá cây, vỏ cây, đá, vải, kim loại… thậm chí kể cả tư liệu ảo như trang web và các tài liệu số khác.

Tính cho đến hiện nay, Việt Nam có 11 di sản tư liệu được UNESCO vinh danh, trong số đó có 4 di sản tư liệu thế giới và 7 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đặc biệt, trong số 7 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương, có 2 di sản tư liệu Phật giáo đó là Mộc bản kinh Phật Thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Ninh) và Hệ thống bia Ma nhai danh thắng Ngũ Hành Sơn (TP.Đà Nẵng). Bên cạnh đó, một số di sản tư liệu Phật giáo đang nằm trong danh sách được đề cử để UNESCO công nhận như: bộ kinh Phật cổ ở chùa Dâu (Bắc Ninh); các cột kinh, sách đá chùa Nhất Trụ (Ninh Bình),…

Tuy nhiên, những di sản nêu trên chỉ là con số rất nhỏ nếu so sánh với hệ thống di sản tư liệu đồ sộ gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Hệ thống di sản tư liệu này được lưu giữ trong các chùa chiền với tuổi đời hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm trải dọc từ Bắc đến Nam, thể hiện trên nhiều chất liệu, hình thái lưu trữ đặc sắc: mộc bản, bia đá, sách giấy, vải,… hay hệ thống chạm khắc, phù điêu trên các công trình kiến trúc, và trong thời cận hiện đại là các phương thức lưu trữ tân tiến hơn như: băng đĩa, phim ảnh,… Hệ thống di sản tư liệu Phật giáo đồ sộ này không chỉ phản ánh tiến trình phát triển, những đặc trưng của Phật giáo Việt Nam qua mỗi thời kỳ, vùng miền, địa phương mà với đặc thù gắn bó giữa tâm linh và thế tục, chúng còn phản ánh được đời sống vật chất lẫn tinh thần của người Việt trong quá khứ.

Hướng đi nào cho bảo tồn di sản tư liệu Phật giáo Việt Nam?

Điều có thể dễ nhận thấy mặc dù được đánh giá cao, hệ thống di sản tư liệu của Phật giáo vẫn chưa được bảo tồn và phát huy giá trị một cách xứng đáng. Ngoại trừ các văn bia hoặc các tư liệu được chạm khắc trên đá, ít chịu tác động bởi môi trường, đa số tư liệu Phật giáo đều tồn tại trên các chất liệu dễ bị hư hại, biến dạng bởi môi trường, thời tiết. Tại các chùa viện, việc bảo quản các mộc bản, kinh sách,… đa phần chỉ được lưu trữ một cách đơn giản, không có sự đầu tư về kho chuyên dụng với công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu tác động từ bên ngoài, đó là chưa kể đến những thất thoát ít nhiều xảy ra theo thời gian, việc tiếp cận các tư liệu nói trên cũng phần nào khá khó khăn do một số nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan từ phía quản trị tự viện.

Thượng tọa Thích Không Nhiên, Phó Giám đốc điều hành Trung tâm Lưu trữ và Nghiên cứu thuộc Học viện Phật giáo VN tại Huế và GS.Lê Mạnh Thát trong một chuyến khảo sát tư liệu Phật giáo - Ảnh: Phùng Anh Quốc
Thượng tọa Thích Không Nhiên, Phó Giám đốc điều hành Trung tâm Lưu trữ và Nghiên cứu thuộc Học viện Phật giáo VN tại Huế và GS.Lê Mạnh Thát trong một chuyến khảo sát tư liệu Phật giáo - Ảnh: Phùng Anh Quốc

Ở miền Bắc và miền Trung, những năm gần đây, việc bảo tồn các di sản tư liệu Phật giáo đang được lưu tâm, phối hợp giữa cơ quan chuyên môn và các chùa; riêng ở miền Nam, gần như việc khảo sát, hệ thống hóa và lưu trữ tư liệu vẫn còn đang bỏ ngỏ. Trong một dịp trò chuyện trước đây, người viết được Đại đức Thích Không Hạnh, Thư viện trưởng Thư viện Huệ Quang - đơn vị đã dành nhiều thời gian để điền dã, khảo sát hệ thống tư liệu tại các tổ tình, cổ tự tại miền Nam và Tây Nam Bộ cho biết, hệ thống tư liệu Phật giáo hiện tồn tại các tổ đình, chùa viện ở khu vực miền Nam và Tây Nam Bộ rất phong phú, trải dài qua nhiều thời kỳ khác nhau. Trong đó, với đặc thù lịch sử khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, di sản tư liệu Phật giáo tại miền Nam còn có một hệ thống kinh sách, báo chí, văn bản bằng chữ Quốc ngữ khá đồ sộ mà qua đó, phản ánh một giai đoạn phát triển với những biến đổi sôi động của Phật giáo tại miền Nam.

Tạm tính cho đến hiện nay, riêng với Phật giáo, chỉ có 3 đơn vị được thành lập với chức năng chuyên biệt đó là sưu tầm, lưu trữ, tổ chức nghiên cứu và phát huy giá trị di sản Phật giáo đó là Trung tâm Lưu trữ và Nghiên cứu thuộc Học viện Phật giáo VN tại Huế, Trung tâm Tư liệu Phật giáo Việt Nam thuộc Phân viện Nghiên cứu Phật học VN tại Hà Nội và Thư viện Huệ Quang tại TP.HCM. Trong đó, Trung tâm Lưu trữ và Nghiên cứu thuộc Học viện Phật giáo VN tại Huế là đơn vị duy nhất có Phòng lưu trữ và trưng bày tư liệu số Phật giáo, với chức năng lưu trữ tư liệu âm thanh.

Việc lưu trữ và phát huy giá trị di sản tư liệu Phật giáo chỉ thực sự hiệu quả khi có sự phối hợp đồng bộ giữa các bên - Ảnh: Phùng Anh Quốc
Việc lưu trữ và phát huy giá trị di sản tư liệu Phật giáo chỉ thực sự hiệu quả khi có sự phối hợp đồng bộ giữa các bên - Ảnh: Phùng Anh Quốc

Sự hiện diện của các đơn vị nói trên là sự góp mặt cần thiết từ phía Phật giáo trong việc lưu trữ, hệ thống hóa tư liệu. Tuy nhiên, tất cả vẫn là cố gắng phát xuất từ phía các đơn vị riêng biệt. Để có thể bảo tồn và phát huy mạnh mẽ hơn nữa giá trị của tư liệu, chắc chắn cần phải có một phương hướng tổng quát, tạo sự phối hợp rộng lớn hơn với các điều kiện cụ thể hơn để việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Phật giáo trước hết phải đến từ chính cộng đồng Phật giáo. Đó là điều mà ban ngành, bộ phận chuyên môn của Giáo hội cần cân nhắc.

Những điều còn bỏ ngỏ

Như đã đề cập, việc bảo tồn di sản tư liệu của Phật giáo không chỉ nhằm lưu giữ lại những giá trị đồ sộ mà Phật giáo đã tạo nên trong tiến trình phát triển hơn 2.000 năm của mình tại Việt Nam, mà hơn hết, còn là chất liệu quý giá và cần thiết cho việc nhìn lại quá khứ với những thăng trầm, biến đổi từng diễn ra; phục vụ cho các nghiên cứu liên quan đến Phật giáo, và cả đời sống văn hóa xã hội của người Việt qua nhiều giai đoạn, nhiều thời kỳ lịch sử. Đó là chưa kể, ngay chính hệ thống tư liệu của Phật giáo cũng là đối tượng nghiên cứu chính trong một số công trình khoa học.

Gần nhất có thể kể đến việc xuất bản công trình Tùng thư bia hậu Việt Nam do Dự án Vietnamica, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn hợp tác tổ chức biên soạn và thực hiện. Đối tượng nghiên cứu chính của công trình này là các vấn đề xung quanh hình thức bầu hậu, hậu Phật ở miền Bắc Việt Nam - một hoạt động cung tiến công đức vào các đình chùa đặc biệt thịnh hành dưới thời Hậu Lê thông qua khảo sát, phân tích hệ thống bia hậu tại các đình chùa Bắc Bộ. Trước đó, các đơn vị này cũng đã phối hợp để thực hiện một Tuyển tập tư liệu bia hậu Việt Nam nhằm tập hợp hệ thống nội dung các văn bia hậu sưu tầm được tại miền Bắc.

Bảo tồn di sản tư liệu cũng là để bảo tồn những giá trị sống động của lịch sử Phật giáo - Ảnh: Phùng Anh Quốc

Bảo tồn di sản tư liệu cũng là để bảo tồn những giá trị sống động của lịch sử Phật giáo - Ảnh: Phùng Anh Quốc

Tại Huế, trong suốt 11 năm qua kể từ khi ra mắt, ấn phẩm Liễu Quán do Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán - Huế thực hiện, phát hành định kỳ 3 số/năm. Mỗi chuyên đề được thực hiện qua mỗi số sẽ giới thiệu, khảo sát về hệ thống tư liệu tại một khu vực, một hoặc nhiều chùa theo chủ đề nhất quán liên quan đến Phật giáo, chủ yếu tập trung vào khu vực từ Bắc Trung Bộ kéo dài cho đến Nam Trung Bộ. Bên cạnh đó còn có một số công trình cá nhân nghiên cứu về tư liệu Phật giáo đã được xuất bản và giới thiệu đến công chúng trong vài năm trở lại đây.

Tuy vậy, dư địa trong việc nghiên cứu tư liệu Phật giáo vẫn còn khá lớn. Bởi bản thân mỗi tư liệu hoặc hệ thống tư liệu gắn với một hoặc một số chủ thể văn hóa - lịch sử nhất định vẫn gợi mở ra vô số hướng nhìn, cách đánh giá cho nhiều ngành khoa học khác nhau. Thiết nghĩ, chúng ta cần thêm nhiều sự khuyến khích, định hướng ngay từ trong các học viện Phật giáo lẫn viện nghiên cứu đối với lĩnh vực nghiên cứu tư liệu, văn bản học Phật giáo cũng như tạo thêm những sự hỗ trợ, khuyến khích cần thiết đối với việc nghiên cứu lâu dài, xuất bản các tuyển tập tư liệu hoặc các công trình nghiên cứu liên quan đến tư liệu Phật giáo thực sự có giá trị, chất lượng chứ không chỉ đơn giản là tổ chức các hội thảo khoa học cấp thời để rồi kết quả mang lại chỉ dừng ở “thành công tốt đẹp” trên các bản tổng kết.

Làm được điều đó cũng chính là cách phát huy, lan tỏa hữu hiệu nhất đối với kho tàng di sản tư liệu Phật giáo Việt Nam, hay rộng hơn nữa, là giá trị tinh thần vô giá mà Phật giáo Việt Nam đã cống hiến cho văn hóa và lịch sử dân tộc.

Tin cùng chuyên mục

Tin mới

Thư viện

Thông tin hàng ngày

© Giác Ngộ Online
Số giấy phép: 389/GP-BTTTT ngày 02-8-2022
Tổng Biên tập: Thượng tọa Thích Tâm Hải
Trụ sở tòa soạn: 85 Nguyễn Đình Chiểu, phường Xuân Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh
©2008-2025 - Toàn bộ bản quyền thuộc Báo Giác Ngộ.