Thi phẩm thất ngôn tứ tuyệt vừa nêu (Việt dịch thành “bát ngôn”), được Tô Đông Pha trước tác khi trú đêm tại chùa Đông Lâm. Tô Đông Pha tự cho đây là thi kệ. Cứ gọi đấy là kệ tụng đi cũng nên. Chỉ riêng 2 câu đầu thôi, trong bản chất đủ áp đảo, dọa đời. Ngang qua biểu diện, nếu chẳng phải là tác gia của tông môn, thì cái ngữ khí đó, hầu như không có gì là hoạt đại. Bởi, bao lần học sỹ đến đây luận đàm cùng Pháp sư Trúc Trí Viên Chứng Ngộ kia mà.
Ngày nọ, Chứng Ngộ nhắc đến kệ ấy cho Thiền sư Hộ Quốc Thử Nguyên Am nghe. Cả hai cùng nhàn luận thâu đêm. Chứng Ngộ tán dương: “Cũng chẳng dễ gì đặt chân đến trạng thái này đâu!”. Am nói: “Chưa thấy lối đi (nguyên lý pháp. N.D) sao cho là đến vậy?”. Chứng Ngộ đáp: “Tiếng suối reo vốn là lưỡi rộng dài, thì sắc núi há không là pháp thể? Nếu chẳng đặt chân vào nguyên lý pháp, làm sao nắm bắt được thông tin này?”. Am thẳng thừng nói: “Chỉ là gã ở ngoài cửa thôi! (chỉ ở mặt khái niệm thôi. N.D)”. Chứng Ngộ thưa: “Xin Hòa thượng từ bi, có thể vì con chỉ cho chỗ phá?”. Am dạy: “Cứ tạm theo cái cách truy tìm rình rập qua tính văn nhã trong trứ tác có vẻ mạnh bạo này đi. Nếu rình rập truy tìm thì có thể nắm bắt được chỗ phá, tức là biết được căn cơ rớt vào địa vị nào vậy?”. Chứng Ngộ nghe qua lời ấy, nhũn người ra, suốt đêm trầm tư không cách gì chợp mắt. Đâu hay trời sáng, bỗng nghe chuông sáng công phu, lòng chợt rạng ngời, khử trừ “bệnh” chứa đầy hơi (bí súc) trong lòng mình. Bèn viết riêng kệ, bày tỏ cách thấy mới đây:
Cư sĩ Đông Pha lưỡi khó cân
Trong duyên thanh sắc tưởng pháp thân
Nếu suối là thanh núi là sắc
Không sơn không thủy khéo sầu chăng?
Chứng Ngộ vừa mang kệ, vừa chạy đến trình Am, Am phán: “Ngươi vẫn cứ là gã đứng ngoài cửa thôi!”.
Đoạn công án này, khiến ta kinh ngạc lạ thường, bởi, ngay cả tông môn cũng có 2 câu cốt lõi như vậy: “Trúc biếc phơi xanh toàn là pháp thể, Sầm uất hoa vàng há chẳng trí như?”.
Cách tương xứng của cả hai, tông môn đều hứa khả; vì cả hai có cấu trúc tương đồng trong ý nghĩa quy mô. Thế thì, tại sao Thử Am lại cho là Tô học sĩ chỉ là gã chưa thấy được nguyên lý giáo pháp? Còn Chứng Ngộ nghe chuông sáng công phu, lòng chợt tỏ ngộ, sư ấy cảm nghiệm đạo lý gì vậy? Hai diểm nghi vấn vừa nêu, có thể được thảo luận như sau:
Chúng ta hẳn biết, Thiền tông còn được gọi là Tâm tông. Thế thì, cái đạo lý đó, hành giả phải tự mình trực tiếp tu chứng, không thể dùng khả năng tri thức suy luận mà nắm bắt được. Thật vậy, nếu là bậc đại triệt đại ngộ, thì họ nói ngang dọc như thế nào đi nữa, cũng ở trong chân lý. Ta chẳng thấy Triệu Châu đó sao? Tăng hỏi: “Con chó có Phật tính không?". Sư đáp: “Không”. Ngày khác, có vị Tăng hỏi: “Con chó có Phật tính chứ?”. Sư nói: “Có”. Đúng là bậc đại thiện tri thức, có thể phá hủy và thiết lập một cách tự tại, sở hành của ngài vô pháp cố định. Lại nữa, như Tăng Chí hỏi Lục tổ: “Đệ tử thường tham cứu kinh Niết Bàn, mà vẫn chưa thấu hiểu nghĩa vô thường, xin Hòa thượng xót thương, lược giải cho con”. Tổ dạy: “Vô thường là Phật tính, tức là tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy”. Chí thưa: “Như Hòa thượng dạy, thì đại phạm kinh văn!”. Tổ hỏi: “Ta truyền ấn Phật tâm, sao dám phạm kinh văn chứ?”. Chí thưa: “Kinh thuyết Phật tính là thường, mà Hòa thượng lại nói là vô thường. Pháp (hiện tượng) thiện ác, nhẫn cho đến phát tâm cầu đạo vô thượng đều là vô thường, mà Hòa thượng lại nói là thường. Nói vậy tức là phạm Phật điển, khiến người tu học càng thêm nghi hoặc”. Tổ nói: “Xưa ta nghe ni Vô Tận Tạng tụng qua một biến, nhân đấy giảng ra, không một chữ một nghĩa nào mà không đồng nhất với kinh văn, ngay cả cho ngươi, chẳng lệch một lời.
Ngươi có biết? Nếu Phật tính là thường, thì còn nói chi đến pháp thiện ác? Thậm chí có cùng kiếp đi nữa, cũng không ai phát Bồ đề tâm. Do vậy, ta nói vô thường, chính là Phật dạy nguyên lý chân thường vậy. Vả, nếu chư pháp là vô thường, thì mọi hiện tượng đều có bản chất dung nạp tử sinh, thế nên chân thường là pháp xứ không biến thái chướng ngại. Do vậy ta nói thường, chính là Phật dạy nghĩa thú vô thường chân thật. Phật biết rõ các tư tưởng gia với những phạm trù biện chứng triết học non kém (phàm phu ngoại đạo), họ bám luyến vào cái thường cong lệch. Các vị Thanh văn Duyên giác, ở trong cái chân thường mà khởi luận vô thường. Vậy nên, nội dung giáo nghĩa vi diệu của kinh Niết Bàn là phá hủy luận điểm ngộ nhận ấy, mà dạy chân thường, chân lạc, chân tịnh, chân ngã một cách rõ ràng. Nay ngươi đeo bám lời, nghịch lại nghĩa, lấy vô thường đoạn diệt và phạm trù hóa cái thường làm chết cứng đơ nó, nghịch lời dạy tinh tế tối hậu tuyệt tròn của Phật; cho dù có tham cứu ngàn lần đi nữa, thì có ích lợi chi đâu?”. Chí hoát nhiên đại ngộ, kệ rằng.
Vì chấp tính vô thường
Phật dạy tính thường có
Chẳng hay là phương tiện
Như nhặt đá mùa xuân
Nay ta chẳng tốn công
Phật tính lại hiện tiền
Không được thầy truyền cho
Ta vẫn vô sở đắc.
(Ta chẳng cách chi được)
Tổ an nhiên dạy: “Nay ngươi thấu suốt”. Chí lễ tạ lui ra.
Ta thấy đấy, bậc đến nhà rồi, nói sao cũng là chính lý, chánh diện thuyết cũng đúng, phản diện nói chẳng sai. Nếu chỉ dựa vào tài ba, ý thức khéo biện, kết bút thành hoa, sao chép hoa vàng trúc biếc ấy, để thêu dệt Thiền bằng tư niệm của mình; thành ra, bạn đem cái Phật tính thường, cái mà Như Lai trực tiếp dạy vô thường đoạn diệt trong kinh điển để mà chấp trước. Cách bám luyến ấy đã được sơn phết thành cơ sở tư duy, đến độ, nhọc lòng Tổ sư một lần quét dọn. Thử Am là bậc đại thiện tri thức, nhìn thấu tầm cao của giáo pháp, thấy suốt ba đời, dọc ngang mười cõi. Bất cứ cách bám dính nào thể hiện, ngài cũng đều xử lý một cách tinh tường.
Bạn hãy xem! Có một ngày, Tô Đông Pha tác một vần thi kệ có thể nói là rúng động cổ kim. Kệ của ông ấy như vầy:
Đảnh lễ Đấng Chí Tôn
(Thiên Trung Thiên)
Hào quang chiếu đại thiên
Tám gió thổi, bất động
Nghiêm tọa sen vàng tía.
Bài “kệ”này so với bài kệ trước có phần ẩn mật hơn. “Thiên Trung Thiên” chỉ cho Phật, Đấng Thế Tôn, Bậc Đại Hùng. “Hào quang” chỉ cho ánh sáng Phật, một trong những phẩm chất của Ngài. Một thái dương hệ là một Tiểu thiên thế giới, một ngàn Tiểu thiên thế giới làm một Trung thiên thế giới, một ngàn Trung thiên thế giới như vậy, làm thành một Đại thiên thế giới. “Bát phong” (8 thứ gió), thường chỉ cho trạng thái tâm lý cá nhân hữu ngã. (Xem Phật Quang đại từ điển).
Định lực Phật Đà khiến cho 8 loại gió ấy không thể xuy động được, Ngài tọa an nhiên trên tạng sen vàng tía ấy. Thi kệ này, Tô học sĩ thuần túy ngợi ca Phật pháp như thật, dựa vào Phật lý, hóa thân thành thơ trên mặt văn chương, không ai ra sức đả kích bao giờ. Đến nay, trong chốn tùng lâm, khi diễn sớ, khi viết cho phần sớ đề, đều dựa vào thi kệ này. Khi đọc sớ vào thời điểm trăng tròn, thầy Duy na tiện thể dẫn ra xướng tụng. Thế nhưng công tâm mà nói, cái gọi là kệ ấy, cũng chính xác là áp đảo, dọa đời thôi.
Viết xong kệ rồi, Đông Pha rất phấn khởi, hồ hởi. Như ta biết, Tô học sĩ và Hòa thượng Phật Ấn vốn là đôi bạn tâm giao. Học sĩ nhanh chóng gọi gia đinh mang ngay vần kệ mà ông cho là tuyệt hảo đó, đến trình Phật Ấn xem qua. Đã thế, lại còn dặn đi dặn lại gia đinh, phải hầu chờ cho được phúc đáp của lão Phật gia kia. Dứt khoát là Hòa thượng tấm tắc ngợi khen thôi! Ai ngờ, sau khi xem xong, Phật Ấn buông gọn: “Đồ chó đánh rắm!”. Thế rồi vất đi. Chờ lâu, gia đinh hỏi: “Thưa, Hòa thượng có phúc thư cho lão gia con không à?”. Ấn nói: “Không”. Gia đinh thưa: “Hòa thượng có lời nhắn gởi gì, để con về thưa lại với lão gia con?”. Ấn cố đanh mặt lại: “Ngươi điếc rồi sao, ngươi không nghe lão tăng nói - đồ chó đánh rắm - đó ư?”. Gia đinh bỗng no ngang, vô phương tiêu hóa. Thế là đầu óc rối bời bời, anh ta tất tả quay về bẩm báo: “Thưa, con đã trình kệ cho lão Phật gia rồi đấy!”. Đông Pha cảm thấy có gì kỳ quái, hỏi: “Hòa thượng có phúc thơ chứ?”. Gia nhân đáp: “Thưa không, nếu có, con đâu dám không trình lão gia”. Đông Pha hỏi: “Xem xong, Hòa thượng có nói gì không?”. Gia đinh: “Không nói chi cả”. Đông Pha: “Đồ đánh rắm! Kệ hay như vậy mà chẳng có ý kiến gì sao?”. Gia nhân: “Đúng là có nói - đồ đánh rắm đấy, thưa lão gia, nói xong Hòa thượng vất bừa xuống đất”.
Đông Pha vừa nghe, khí giận bừng bừng, cơ hồ toàn thân bốc khói, miệng cứ lẩm bẩm, thứ hòa thượng dở hơi, thứ hòa thượng dở hơi! Cái vần kệ không sơ hở ấy, lẽ nào lão Phật gia kia, không thấy ra được một chút đạo lý nào? Tức tốc gọi gia đinh, thu xếp khăn gói, đường tắt vượt sông; vừa gặp Phật Ấn, Pha hỏi ngay: “Này Ấn lão! Kệ vừa trình ấy của tôi, có chỗ nào không phải vậy? Xin chỉ bảo, xin chỉ bảo!”. Phật Ấn ôn tồn đáp: “8 gió thổi bất động, đánh rắm vượt sông qua”. Nghe xong, Đông Pha ngửa mặt nhìn trời, không nhịn được cười: “Quả nhiên toàn kiến! Quả nhiên toàn kiến!”. Vậy là hai người cùng vui, mối thâm giao càng thắm thiết.
Nói thật ra, Phật Ấn, bậc cự phách thực chứng của tông môn, mỗi lời nói ra, đều từ “trí” địa, còn Đông Pha, dẫu sao cũng chỉ là môt văn tài thế tuệ, cho dù thần bút trổ hoa, cũng xuất từ “thức” địa mà thôi, cho dù, lượn bay tới cõi trời thứ Ba mươi ba đi nữa, cũng chẳng vượt qua đỉnh tướng của bậc đại tu hành.
Có một ngày về sau, Đông Pha lại đến tham phỏng Phật Ấn. Cả hai vào chùa để nguyên đôi vớ đang mang, ngồi đối diện nhau mà luận Thiền. Pha hỏi: “Hòa thượng thấy đôi vớ tôi giống gì?”. Phật Ấn đáp: “Phật Thế Tôn đấy!”. Phật Ấn hỏi lại Đông Pha: “Học sĩ xem đôi vớ lão nạp giống chi?”. Đông Pha thấy ngài mang đôi vớ vải to xù đen đúa, tiện thể nói: “Là bãi phân ngựa”. Phật Ấn lặng thinh. Đông Pha tung một hèo mà thu thắng lợi, cao hứng vô cùng. Đến tối về nhà, vừa gặp Tô tiểu muội, liền hớn hở nói: “Muội muội ơi! Vừa pháp chiến cùng lão Ấn, huynh thắng đậm. Không biết hôm nay, Ấn lão bị mốc meo gì làm cho trượt ngã, cơ may còn thuộc về học sĩ này đây, lão ấy lặng thinh không có lấy một lời, thật vô lý quá!”. Pha kể một mạch chi tiết trận chiến đó cho muội mình nghe. Lắng nghe xong, Tô tiểu muội nói: “Ý! Ca ca mừng hụt rồi! Muội tạm hỏi ca ca, Phật được người ta xem là tôn quý, hay phân ngựa là tôn quý?”. Đông Pha ngạc nhiên: “Tất nhiên là Phật tôn quý chứ!”. Tô muội nói: “Thế thì Phật, là kiến xứ của Ấn lão, còn phân ngựa là kiến xứ của ca ca, có phải quân của huynh đã bị nhận chìm hết rồi chăng? Ôi! Ấn lão thắng vàng, mà còn có ý giúp ca ca nữa đó; ca ca lải nhải làm gì”. Đông Pha nghe Tô tiểu muội nói xong, lặng người, hóa ra mình bị té vào trong cái vòng tròn(1) tịch lặng [cái bao tròn trùm kín] của Ấn lão, thật đáng thẹn vì ngu si!(2).
Giòng dõi họ Tô tài tuấn như rừng, có thể Tô tiểu muội không sánh được cái tinh chất văn chương quá tao nhã của 2 vị ca ca mình. Tuy nhiên, nếu luận đến thể tài này, thì nữ tử trong giòng tộc Tô gia dư điều kiện sánh. Do cả nhà tin Phật, riêng Tô muội lại tiếp cận nhiều với các bậc cao đức. Nếu như khởi trận tương tranh, thì không biết ai sẽ chết về tay ai? Bây giờ thì bạn xem, Tô học sĩ bỗng trêu Tô muội Nhan Đột như vầy: “Gót sen chưa rời ngoài khuê các, trán cô Nhan đến trước thư phòng rồi”. (Hẳn là Tô học sĩ trêu em gái mình có cái trán quá vồ chăng? N.D).
Nhan Đột tiểu muội kém chi, họa liền theo, bêu khuôn mặt quá dài của Tô Thức: “Đôi hàng lệ, nhớ người năm xưa ứa; chảy mãi đến nay chẳng tới cằm”. Xem ra, Tô muội giành lấy thượng phong. Bời, trán cô Nhan đến thơ phòng, quá lắm chỉ dài 3 trượng, còn khuôn mặt Tô học sĩ dài đến hàng ngàn cây số vậy!
Cuộc nhàn đàm tạm dừng ở đây. Những luận điểm vừa nêu, ta chắc nhận ra rằng, cái văn vẻ Thiền tông trong lòng Tô Thức, củi khô của ngài chất lớp lò hồng (sài diêu tử định), rèn cho được thanh kiếm Long Tuyền sắc màu tối thắng(3) , ai ngờ chỉ luyện thành đồ gốm sứ: bình, đỉnh vạc… bằng khoáng sản mà thôi (nấu sỏi thành cơm, chưa từng có được bao giờ). Thử Am có con mắt như mặt nhật giữa trời, soi thấu hết những hẻm cùng, hang tối, lão già ấy có Bích Nhãn Bồ Đề (Tức là đôi mắt xanh của Tổ Bồ Đề), làm gì mà ngài không thấy sự sai lầm của Tô Thức? Do vậy, khi Chứng Ngộ nêu kệ của Tô Thức ra khen, ngài liền biết ngay, thi kệ ấy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Ngài dứt khoát phê phán: “Chưa biết nguyên lý pháp”, là “Gã đứng ngoài cửa”. Rồi đến Chứng Ngộ tầm tư suốt đêm, đến khi trời hửng sáng, chợt đại ngộ, rốt lại sư đó cảm nghiệm đạo lý gì? (Lại nhắc đến thi tác của Tô học sĩ), nói chung khó mà tha được cái tội phóng túng, kém kỷ cương, lại còn vẽ rắn thêm chân nữa chứ! Vốn là, lộ trình chứng ngộ của Thiền tông, không phải chỉ một lần ngộ là có thể ngang tầm chư Phật. Cổ đức cho rằng, đại ngộ, 18 lần, tiểu ngộ, chưa có thông tin về số. Việc này không phải ai cũng như nhau. Tóm lại, lộ trình tu chứng, đại loại có thể phân thành 3 giai đoạn: Sơ quan, trùng quan, mạt quan. (3 trục xuyên tâm này, có thể là nội dung khép trong tư tưởng hệ của Thiền sư Vô Môn? Người dịch chưa tra cứu được). Nằm dưới “Giáo hạ”, lại chia ra làm 3 trạng thái : 1. Thành tựu trí tuệ do tư duy (Tư sở thành tuệ). 2. Thành tựu trí tuệ do tu (Tu sở thành tuệ). 3. Thành tựu trí tuệ do học tập nghiên cứu Kinh, Luận (Văn sở thành tuệ).
Khái niệm thực dụng của Nho gia so với 3 trạng thái trên, thì:
- Tính bác học, tính thẩm xét (Bác học chi, thẩm vấn chi), lược đồng tương đối với Văn thành tuệ.
- Tư duy nghiêm xác (Thận tư chi), lược đồng tương đối với Tư thành tuệ
- Tính minh biện, nỗ lực thực hiện (Minh biện chi, đốc hành chi), lược đồng tương đối với Tu thành tuệ.
Do vậy, cần phải thúc đẩy tiến trình tu học đi đến triệt để. Nếu trong lộ trình, tạm dừng ngơi nghỉ, dạo cảnh xem hoa, thì đường càng xa càng lệch. Bậc thiện tri thức ra đời vì người, và cho những ai trong cuộc lữ hành gian khó ấy, các ngài vạch ra kế sách, xoay ngược động cơ, đưa ta vào Thánh trí tự chứng. Hoặc, có khi, người cảnh đều đoạt, đuổi trâu dân cày ruộng đi, cướp lấy lương thực của người đói, như Hàn Tín quyết một trận sống còn vì sự tồn sinh của ba quân tướng sĩ, trong cõi chuyển lưu bày phương tiện trước tiên. Đấy là búa kiềm mạnh bạo của Thiền gia. Và, Chứng Ngộ, phải đâu là một Thiền giả y theo lối mòn tối ám.
Ban đầu, sư y chỉ với Pháp sư Bạch Liên Tiên. Ngày nọ sư hỏi thầy về đạo lý biến thiên, tức là nguyên lý tiến hóa luận. Thầy chỉ cây đèn thường dùng, dạy: “Như cây đèn ấy, rời tính toàn không (ly tính tuyệt phi), tự tịnh bản chất, 6 phàm 4 thánh, sở kiến bất đồng, biến là tại đấy”. Sư không hiểu. Sau đó, nhân sái tịnh đạo tràng để tụng Pháp Hoa, tụng đến câu: “Biết pháp, thường không bản chất, Phật chủng tùy duyên khởi”. Sư liền tỉnh ngộ, trình thầy, được thầy thừa nhận.
Tiếp chúng đến giờ, (sư thấy) học giả đời nay thường loạn, bám vào bút lục, thậm chí lấy Thiên Thai làm cái học văn từ, khinh chê giáo pháp Nam tông. Do gặp đúng nhân duyên là Thử Am, ngẫu nhiên sư ngợi ca thi kệ Đông Pha, Thử Am thừa cơ trừ tận, sợ người góp công cho bò húc nhọn sừng.
Thế là, sư thâu đêm không chợp mắt, dứt nẻo tư duy (tâm hành tịch diệt. N.D), tuyệt mất ngôn từ (ngôn ngữ đạo đoạn. N.D), ngay thời điểm ngưng dòng hiện nghiệp, bỗng nghe chuông công phu sáng, chứng tri mọi hiện tượng đều không có tự tính quyết định. Tất cả như huyễn hóa, chỉ hiện hữu qua tương quan. Thế thì, suối là huyễn, nên suối chẳng là suối; vậy, thanh cũng vô căn, bày đặt tướng lưỡi rộng dài, rõ là người mê, mộng nói. Núi cũng là huyễn, núi chẳng là núi. Vậy, núi không là núi, sắc do đâu mà hiển? Còn gọi sắc ấy là pháp thân, há chẳng phải là gã khờ, tô vẽ hư không sao? Lật ngược được vấn đề nội tại rồi, kiềm lòng không được, sư tuyên bố:
Cư sĩ Đông Pha lưỡi khó cân
Trong duyên thanh sắc tưởng pháp thân
Nếu sơn là sắc, suối là thanh
Không sơn không thủy khéo sầu chăng?(4)
Ta thấy đó, gót chân sư đã xoay hướng đến, nên vùng đất kia, thiền cước thật sự chạm vào.
Cổ nhân, khi tiếp cận với công án này, thường lý giải một cách tự tại, có kệ:
Gã ấy
Trọn đêm tư duy, liền mê sảng nói
Đông Pha ngoài cửa chưa cùng diệu môn.
Lại nữa, Thử Am dứt khoát với Chứng Ngộ: “Ngươi vẫn còn ở ngoài cửa đạo”. Thiền gia đưa ra nhận xét trọng yếu: “Tạm nói là thưởng phạt y, chẳng sai chi!”. Phê phán như vậy, đều bao hàm ý nghĩa tịnh hóa trí giải của người tham học. Bởi, Thiền tông “tông hạ” kỵ nhất là trí giải. Thật thế, quán sát công án nhằm thực chứng bản tâm, đối tượng khách quan không thể nào đưa ta vào nguyên lý pháp. Giữa sợi tóc chẻ làm tư không liên quan gì với pháp tu nội quán cả. Thế nên, mũi nhọn trong diễn ngữ của cổ nhân, chỉ có mục đích làm cho người trực tiếp tham học được lợi lạc phát sinh nghi tình. Nghi tình liền tham cứu, tham cứu liền siêu việt cấu trúc lập nghĩa mà (minh sư đã nêu). Vậy nên nói: “Tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ”. Như Chứng Ngộ kia, bị Thử Am bức bách làm cho nghẹt thở, suốt đêm nghi nan uất nghẹn. Nhờ vậy mà tỉnh ra, nhàn tức. Và, được Thử Am thừa nhận. Sau này có Bần Hóa, đại diện cho dòng thiền Mã Tổ, thỉnh Chứng Ngộ cho lời hiển dương thiền lý, Chứng Ngộ nêu kệ:
Mượn lời chùy nhọn lão Giang tây
Ngày ngày y pháp trị phong suy
Chẳng phải cháu con vô liệu pháp
Cần là khi quán tuyết băng tan.
Thử Am thấy kệ, cười lớn: “Đúng là Xà lê này mới được”.
Mượn lời của Thiền sư Thử Am để viết bản văn này và, lời ấy chính là huyệt kết tối hậu trong lộ trình vạn dặm rồng đi.
Già Lam, Ất Dậu trọng đông
(Dịch theo bản Hán văn của Dung Hy)
(*) Nguyên văn: TÔ ĐÔNG PHA ĐỔ TỬ LÝ ĐÍCH THIỀN TÔNG CỐT ĐỔNG. “CỐT ĐỔNG”, nguyên nghĩa là đồ cổ, đồ quý hiếm. Thế nhưng, theo nội dung hay ngữ cảnh của bản văn, tôi xin dịch là: “HOA VĂN” hay là cái đã được trau chuốt, (với Câu Xá, từ này gọi là pháp hữu vi). Ở đây, như tinh thần của Hitopade: (Nền) giáo huấn hữu lý đã dược nghe ấy, nó ở trong sự thể hiện có tính văn nhã... (Phạn ngữ thi văn đồ thư giải / Thương vụ ấn thư quán / La thế phương trước / Đài bắc 2001). Vậy, “CỐT ĐỔNG”, xin dịch là “HOA VĂN” hay “NÉT VĂN NHÔ cũng được. Kính mong người đọc nhuận chính.
1 Nguyên văn: Tài tri trụy tại Ấn lão mặc nhiên đích khuyên hội lý . Hội : Tô vẻ, hội họa, áo lót bên trong người. Từ điển Từ Hải cho là đồng với hội Q. 12. P. 267. ) Ở đây cũng có thể dịch là: Áo lót. Vì có bộ “y Ì)
2 Nguyên văn: Hựu thị nhất trường ma la. . Ma la : 1. Tủi thẹn vì ngu. 2. Trống không, không thành kiểu dáng.
Không có thôn làng nên người un khói. Nhân yên ma la bất thành thôn (Dương vạn lý chí tân khúc thi ) (Trung Văn Đại Từ ĐiểnQ. 30. P. 317. )
3 Nguyên văn: Tối hồng Long Tuyền . Đây là tên của một thanh kiếm báu.
1. Cách 5 dặm về hướng Nam, huyện Long Tuyền, nước ở đây có thể luyện kiếm. Theo truyền thuyết, có người dùng nước này để luyện kiếm. Luyện xong, kiếm hóa rồng bay lượn. Do vậy (kiếm luyện ở đây, gọi là Long Tuyền. (Thái bình tụ trụ ký #Ó#Ð#zỈ›)
2. Ở giữa khoảng sao Đẩu và sao Ngưu, có một dãy khí màu tím thẫm. Dự Chương Lôi Hoán nói: "Đấy là khí của kiếm báu, khí lộ rõ trên trời. Hoa hỏi: "Ở tại huyện nào?”. Hoán: "Tại thành Phong, huyện Dự Châu". Hoa phái đi tìm. Hoán đến huyện ấy, đào sâu dưới nền ngục hơn 4 trượng, gặp hộp bằng đá phát sáng thần kỳ, ở trong đó có 2 thanh kiếm khắc chữ : 1. Long Tuyền. 2. Thái A. Được kiếm rồi, đêm đến, làn khí giữa 2 sao Đẩu Ngưu không thấy nữa. (Tống thơ Trương Hoa truyện. Trung văn đại từ điển. Q38. P. 649. )
4 Nguyên văn : Đông Pha cư sĩ thái nhiêu thiệt
• Thanh sắc quan trung dục thấu thân
Khê nhược thị thanh sơn thị sắc
Vô sơn vô thủy hảo sầu nhân
Ở đây, câu thứ 2, dục tôi dịch là “tưởng”. “Tưởng”, không nên hiểu là tưởng tượng, mà phải hiểu là “cấu trúc ngôn ngữ” (vikalpa) như trong bài viết “Nhân đọc triết học Thế Thân bản dịch Việt” của thầy Tuệ Sỹ (tập san NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC THỪA THIÊN HUẾ số 15). Túc là do “tập khí văn học” mà Tô học sĩ tác thành bài thơ ấy và vần thơ ấy cũng chỉ là “hoa văn” hay pháp hữu vi mà thôi. Thế nên, Thiền sư Thử Am cho Tô Thức chỉ là “gã đứng ngoài cửa”, chưa nhập vào “nguyên lý pháp dharma-vidhigatim”. Vậy, Tô Thức vẫn đáng được trân trọng như là một hành giả (yogi). “Ngoài cửa”, hoàn toàn không có nghĩa là “ngoại đạo”hoặc bị những phạm trù triết học ấu trĩ lôi kéo “thú hướng ngoại đạo”
Pháp Hiền