Nói là “tự tấn phong” vì tra cứu trong các danh sách tấn phong giáo phẩm chính thức do Giáo hội công bố các năm không hề có tên các vị đó. Đồng thời, việc “tấn phong giáo phẩm” tùy tiện này không chỉ sử dụng xã giao, giới thiệu đãi bôi "lời nói gió bay" ở các buổi lễ lạt, trong giao tiếp, mà được hợp thức hóa bằng việc ấn ký trong các văn bản chính thức của Ban Trị sự cấp tỉnh ban hành.
Nhận định về vấn đề này, cần căn cứ trên các văn bản lập quy của Giáo hội, trong đó cao nhất là Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam sửa đổi lần thứ VII, tại Chương X, về quy định tấn phong giáo phẩm được quy định rõ tại Điều 68, 69 và 70.
Cụ thể:
Liên quan tới việc tấn phong giáo phẩm Hòa thượng, Ni trưởng có quy định là các vị Thượng tọa và Ni sư tuổi đời từ 60 tuổi trở lên, tuổi đạo từ 40 hạ lạp trở lên, có đạo hạnh tốt, có công đức với Đạo pháp và Dân tộc, có đóng góp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (Điều 68).
Việc tấn phong hàng giáo phẩm Thượng tọa và Ni sư được xem xét đối với các vị Đại đức và Sư cô có tuổi đời từ 45 tuổi trở lên, tuổi đạo từ 25 hạ lạp trở lên, có đạo hạnh tốt, có công đức với Đạo pháp và Dân tộc, có đóng góp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam và đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (Điều 69).
Thủ tục tấn phong hàng giáo phẩm do Ban Trị sự cấp tỉnh đề nghị lên Ban Thường trực Hội đồng Trị sự để xét duyệt, đệ trình Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh phê chuẩn, được Hội nghị Trung ương Giáo hội, Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc Giáo hội Phật giáo Việt Nam phê chuẩn tấn phong bằng Nghị quyết Hội nghị và Nghị quyết Đại hội.
Giáo chỉ tấn phong giáo phẩm do Đức Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam ấn ký (Điều 70).
Cũng trong Điều 70 có nêu trường hợp ngoại lệ, đặc cách do Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh xem xét phê chuẩn tấn phong giáo phẩm trước thời hạn trên cơ sở đề nghị của Ban Thường trực Hội đồng Trị sự.
Các trường hợp đặc biệt được xét đặc cách tấn phong trước 3 năm theo hạ lạp đối với các vị là Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự; Tổng Thư ký; Phó Tổng Thư ký; Trưởng Ban chuyên môn Trung ương; Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học; Viện trưởng Học viện Phật giáo VN; Trưởng ban Trị sự Phật giáo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tăng Ni trụ trì các chùa thuộc vùng biên giới, hải đảo phải có thời gian trụ trì từ 2 năm trở lên.
Theo Quy chế hoạt động Ban Tăng sự Trung ương hiện hành, Giáo phẩm là sự công nhận của Giáo hội đối với các thành viên là Tăng Ni; bao gồm Hòa thượng, Thượng tọa (đối với Tăng) và Ni trưởng, Ni sư (đối với Ni). Việc tấn phong giáo phẩm thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Hội đồng Chứng minh, chính thức ban hành bằng Giáo chỉ do Đức Pháp chủ ấn ký.
Việc tấn phong giáo phẩm không chỉ mang tính hành chánh mà còn là một trong những cơ sở xác tín về thời gian tu hành và phụng sự trong tư cách của người xuất gia. Điều kiện để được xem xét tấn phong giáo phẩm lần đầu tiên đối với Tăng Ni là phải đủ 25 năm tu hành liên tục kể từ khi thọ giới Tỳ-kheo (đối với Tăng) và Tỳ-kheo-ni (đối với Ni), có đạo hạnh tốt, có công đức với Đạo pháp và Dân tộc, có đóng góp cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Như vậy, có thể nói rằng việc tấn phong giáo phẩm là sự công nhận một vị Tăng, Ni vào hàng chức sắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đầy đủ giới lạp, đạo hạnh, công đức cho Đạo pháp và Dân tộc cũng như đóng góp cho Giáo hội, như các tiêu chí trên, chứ không phải là chức vụ, do đó, không ảnh hưởng đến chất lượng công việc chuyên môn đảm trách - nếu vị ấy có năng lực và đạo hạnh.
Có những vị Đại đức có năng lực, đạo hạnh vẫn được Giáo hội suy cử đảm nhiệm Trưởng ban Trị sự Phật giáo một tỉnh, mọi Phật sự được vận hành tốt đẹp, phát triển; như trường hợp Đại đức Thích Tâm Đức ở tỉnh Thanh Hóa trước đây hay Đại đức Thích Nguyên Toàn, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Hà Giang (được đặc cách tấn phong giáo phẩm Thượng tọa năm 2024)...
Điều hành Phật sự với cơ sở đó sẽ thuận lòng người, thiết nghĩ không cần phải "ép vội" trong việc tấn phong giáo phẩm để bị mang tiếng là làm việc Giáo hội nhưng lại vô pháp quy, đồng thời tránh được “lời ong tiếng ve” và bị chỉ trích là dựa quyền lập lờ dẫn tới nạn “danh bất chính”, khiến dư luận đàm tiếu.