Con nhỏ mới nhận phòng lúc 8 giờ mà 9 giờ anh lại hỏi: Em có thấy cây me to ngay cái tường bể sau bếp không? Tôi chưng bộ mặt ngơ ngác hơn là tò mò. Cũng bởi cái tính chết nhát, lại mới về chỗ “thâm sơn cùng cốc” nên muốn thích nghi một cách thận trọng nhất, tôi muốn chủ động để mọi thứ cứ diễn tiến từ từ. Nhưng có vẻ như anh muốn kể hơn là muốn khiêu khích sự tò mò của tôi.
Chuyện hay vầy, không nghe không đáng mặt “anh hào”! - thấy khích tướng ghê chưa.
Chị Liên thấy anh nhiệt tình một cách long trọng thì lườm một phát, kiểu tui biết tỏng anh rồi. Thấy bị nắm thóp, rất nhanh, anh bẻ cua liền: Em dạy Văn phải khác, đừng có “nghèo nàn” tư liệu như bà í. (Anh liếc qua chị Liên, ra dấu bà im coi, để tui…): Đó là một đêm trăng, trăng dát vàng hết khu đồi này, anh thấy nhớ người yêu đang dạy ở phố nên ngồi uống rượu, tự đệm ghi-ta, tự chế nhạc hát, anh hát “cao nguyên sầu độc ẩm… nhớ mắt phố, nhớ mắt em, long lanh, long lanh, những giọt nước mắt…long lanh…”. (Nhạc anh sáng tác đấy - nói rồi cười he hé…).
Đố em biết đã xảy ra chuyện gì khi tiếng hát “quỷ khốc thần sầu” của anh cất lên? Không biết chứ gì? Đúng rồi! Đời nào em đoán được chuyện anh đang nghêu ngao hát thì nghe “cụp”, là âm thanh của cái ghế rớt xuống đất. Anh vứt đàn chạy ra sau, run rẩy khi thấy người đàn ông lơ lửng như trái me khổng lồ. Khổ, đứa con gái ốm yếu lại làm mẹ đơn thân, nuôi thêm ông bố bệnh đau nữa thì bất nhẫn quá. Nếu sống không ý nghĩa thì người ta sẽ chọn cái chết cao cả. Chuyện như vầy, cô giáo dạy Văn không biết thấy có phí đời không?
Tôi chưa kịp “phản pháo” thì anh thầy “đáng kính” đã tiếp tục câu chuyện, lâu lâu anh vẫn gặp ông cụ ấy đứng ở sau bếp, cười với anh. Tới đây thì chị Liên phản ứng như muốn anh mau hạ màn, chị bảo hãy nói những chuyện người ta thích nghe chứ đừng kể những chuyện mình thích. Anh chỉ cười hề hề tạm biệt “tiểu cô nương” (cách anh gọi tôi) rồi về phòng đánh đàn tiếp.
Tôi có nhiệm vụ nấu cơm chiều cho cả phòng. Hồi ấy xã X chưa có điện. Chiều mùa đông, ra sau hóc bếp cứ gọi là tối om om. Cơ khổ, tôi không sợ trời không sợ đất nhưng rất sợ… ma. Tôi hình dung cảnh mình bưng xoong canh và nhìn thấy “trái me khổng lồ đang lủng lẳng” đang cười thì chắc là… bỏng toàn thân. Mà nói đâu cho xa, chưa kịp thấy “trái me khổng lồ” thì mấy miếng da tay đã lủng lẳng vì cái tội đã hậu đậu lại còn sợ ma, buổi chiều mò mẫm, nôn nôn nóng nóng nên hốt trúng lửa.
Chưa hết đâu, thầy Triệu còn kể nhiều chuyện khác, còn kinh khủng gấp đôi, hoang đường gấp bội cơ. Như chuyện gần nội trú có con suối nhỏ, một hôm có người phụ nữ ôm đồ ra suối giặt, con cá sấu mập béo ở đâu nấp sẵn dưới suối nhào lên bờ kéo xuống. Buổi chiều ông chồng làm rẫy về ra suối tìm vợ, chỉ thấy đôi dép trên bờ và nghe văng vẳng, “người đàn bà ấy là của tao…”.
Thấy tôi tái mặt, anh kiên quyết, nơi “biên địa” này là xứ… liêu trai đấy, tiểu cô nương.
Sau này mới biết anh đồng nghiệp “nhứt râu nhì bầu bụng” có biệt tài vừa kể chuyện vừa bịa. Tôi hỏi sao thầy giáo lại thích kể chuyện ma? Anh bảo cũng là một hình thức giải trí thôi. Nơi núi non heo hắt buồn quá, anh em nội trú chẳng có trò giải trì, anh ngẫu hứng muốn kể chuyện “liêu trai” để thú vị hóa hành trình của mình. Vì biết nó vô hại. Ai rồi chẳng biết mình đùa...
*
Dạy ban ngày, đêm còn phải đi phổ cập. Đường gồ ghề, đêm đen đặc. Học sinh đến trường thì mười đứa hết tám lôi thôi lếch thếch. Học trò mà to cao như ông Ầm. (Hồi nhỏ, đêm nào mẹ tôi kể chuyện cũng có nhân vật khổng lồ, tên gọi ông Ầm). Vô lớp mà nhoi khủng khiếp, tự do đi lên đi xuống, luôn miệng “Em yêu cô!”. Khổ gớm! Dạy ngày dạy đêm, mùa hè cũng phải bám trường bám lớp. Tôi bắt đầu thấy hối hận về ước mơ tình nguyện làm cô giáo vùng cao của mình. Tôi hụt hẫng, ngỡ ngàng đến thất vọng khi đối mặt cùng thực tế. Nhiều khi khổ, buồn, muốn… trốn về xuôi quách! Trốn cho xa, thật xa, khỏi ngôi trường nghèo nàn ở vùng kinh tế mới heo hút, không hợp với tôi - cô nàng ưa náo nhiệt.
Rồi một buổi sáng, tôi ngủ muộn, dậy mở cửa đã thấy cậu học trò ngồi thu lu tự lúc nào trước hiên nhà. Cậu bảo đến sớm nhưng không dám gọi sợ phá giấc ngủ cô. Tay cậu ôm bó rau muống to. Cậu rụt rè bảo: Rau vườn nhà, tươi lắm, em đem cho cô nấu canh!
Có hôm tôi bệnh, lại học trò khác mang tới nội trú trái cam nhà, nhỏ xíu và khô đét, trái đu đủ eo bằng cổ chân. Mùa mía, những cây mía xanh được các em đem ra suối chà sạch và đem tới tặng cô. Chưa hết; những ngày lễ, quà các em tặng là những bó bông cỏ được sắp và bó thật đẹp, có em kết thành vòng, đeo vào cổ cô giáo nhân ngày 20-11.
Đó quả thật là những khoảnh khắc vô cùng hạnh phúc. Nó giúp tôi vơi nỗi buồn khó khăn, thiếu thốn. Nó khiến tôi ngày càng gần gũi, yêu thương các em hơn. Nhớ nhất là lần tôi bị sốt xuất huyết nặng, phải nằm bệnh viện tỉnh. Học trò bắt mẹ chở xuống tận bệnh viện thăm. Quà thăm cô là một hộp to những con sếu. Em bảo đó là cả lớp thắt để cầu mong cô mau khỏe mạnh. Các bạn rất nhớ cô. Em làm tôi cảm động cực kỳ. Từ lúc đó, tôi đã xem vòng hoa cỏ là vòng nguyệt quế và hộp sếu là chiếc bùa hộ mệnh của đời mình. Không băn khoăn nữa, nhiều lúc tôi nghĩ, “chủ nghĩa Đôn-ki-hô-tê” đã làm nên ý nghĩa cho thanh xuân mình.
*
Bất ngờ, tôi bị tai nạn giao thông, chín phần sống mười phần chết. Một vệt dầu loang trên đường làm chiếc xe bị trượt ngã, văng tôi, xe và chiếc mũ bảo hiểm về ba hướng. Lại là học trò. Học trò đã gọi người nhà đem xe tải chở mía đến “hốt” cô đi cấp cứu.
Tỉnh dậy trên giường bệnh, tôi đưa lưỡi rà tìm những sợi chỉ trong miệng. Vô tình chạm vào một hàng lợi ở hàm trên. Có chuyện gì thế này? Lấy điện thoại làm chiếc gương soi, tôi kinh hoàng thấy khuôn miệng mình như một cái hang tối om. Ôi, những chiếc răng trắng muốt của tôi? Sao tôi không chết luôn lúc đó cho rồi. Giờ sống làm sao, với khuôn mặt bị biến dạng. Trán bị móp vào, xung quanh thẹo nổi thành những sợi gân lớn. Một vết sẹo to dưới cằm trái và lỗ thủng phía trên môi để lại một ụ thịt ú nần. Tay chân cứng đơ đơ, không nhấc lên được. Mọi sinh hoạt đều nhờ mẹ. Tôi của ngày xưa đâu rồi. Tôi sôi nổi ưa náo nhiệt, tôi hừng hực kiêu kỳ của ngày xưa đâu rồi? Không còn ngày xưa. Không phải tôi. Tôi thành phế nhân rồi. Thân xác đau đớn, tinh thần rã rời.
Buồn khủng khiếp, buồn vô hạn, bao nhiêu dự định đã không thực hiện được. Bỏ dở kỳ thi tin học, ngoại ngữ, sau đại học. Tôi nằm rười rượi như con mèo ốm. Nằm một cục thế này tới chừng nào đây? Rồi bỗng nhớ chuyện mình làm cô giáo. Tôi muốn cầm phấn, tôi thèm được lên lớp. Bệnh viện gần trường học, cứ nghe tiếng trống trường là ngực tôi nhói lên, y như ai đó cầm dùi trống gõ mạnh vào ngực mình vậy. Thảm đến độ mỗi lần nghe là nước ở hai mắt ứ lên. Mẹ gắt:
- Bệnh đau không lo chữa mà khóc hoài khóc hủy. Con mắt đang bị bệnh, khóc miết nó mù luôn thì ăn mày!
Bi quan, tôi tắt tiếng, chỉ còn vẻ mặt ủ dột đừ câm và đôi mắt luôn ướt nhèm. Nằm trên giường bệnh, nếu có một dây thường xuân bên ngoài cửa sổ phòng bệnh, chắc tôi cũng làm như Giôn-xi, sẽ đếm những chiếc lá rụng và sẽ rụng theo chiếc lá cuối cùng...
Nằm viện điều dưỡng và phục hồi chức năng hai tháng. Vẫn không có biểu hiện thuyên giảm nhiều. Tôi vẫn cứ ngơ ngơ, đơ đơ. Nhưng không hiểu sao, trong đầu tôi chỉ có mỗi hình ảnh bảng đen, phấn trắng và những gương mặt nhem nhuốc đáng yêu. Ruột gan cồn cào quay quắt.
- Con muốn về nhà đi dạy!
- Dạy dỗ là chuyện cả đời… Ráng hết bệnh rồi về dạy.
Vậy là ráng. Tôi thiện chí và nhiệt tình với những liệu trình điều trị. Rồi cũng được xuất viện.
*
Xe trung chuyển dừng lại trước cửa nhà, bỗng từ đâu các em học sinh ùa tới, có em chực nhào lên xe, có em mêu mếu gọi cô ơi, tụi em nhớ cô quá… Tôi đưa tay ra, cầm tay các em, bật khóc sung sướng như vừa được uống một liều thuốc thần.