GN Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, tập hạ, chép rằng: “Bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu, cau, vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là ‘lên nêu’... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ”.
Chuyện kể rằng, ngày trước, ruộng đất đều thuộc quyền sở hữu của loài quỷ. Loài người phải ăn nhờ ở đậu trên đất đai của quỷ nên hàng năm phải cống nạp thuế cho chúng. Lũ quỷ vô cùng hiểm độc, chúng bày lắm mưu nhiều kế hòng chiếm đoạt công sức lao động của con người. Số thuế phải nộp ngày càng gia tăng, chúng tác oai tác quái để làm khổ cho con người, đặt ra những điều lệ hết sức vô lý, dùng bạo lực buộc con người phải tuân thủ điều lệ “ăn ngọn cho gốc” (nghĩa là chúng lấy phần ngọn còn phần gốc để lại cho người). Thế là sau vụ lúa năm ấy, mọi người đành ngậm ngùi nhìn lũ quỷ đánh chén no nê.
Thấy cảnh tượng đói khổ của con người, Đức Phật động mối từ tâm, hiện đến để cứu giúp người dân thoát khỏi sự hà hiếp của lũ quỷ. Ban đầu Đức Phật dạy người trồng khoai lang, đến mùa thu hoạch, cứ theo quy định đã đưa ra, lũ quỷ lấy phần ngọn còn phần gốc là của con người. Thế là người dân được một mùa bội thu, còn lũ quỷ ngán ngẩm nhìn đống dây và lá khoai khô héo. Sau đó chúng lại đổi điều lệ thành “ăn gốc cho ngọn”. Đức Phật dạy người dân chuyển trồng khoai sang trồng lúa. Cuối mùa, lũ quỷ lại một phen ngậm ngùi cay đắng gặm nhấm gốc rạ. Lần này, chúng lại đặt ra điều lệ mới là “ăn cả ngọn lẫn gốc”. Lũ quỷ tưởng rằng như thế là chúng nắm chắc được phần lợi trong tay, nhưng Đức Phật đã dạy con người trồng ngô. Vụ mùa đến, người dân thu hoạch ngô đem về nhà, còn lũ quỷ thì lại bị một vố chua cay, tức tối. Cuối cùng lũ quỷ tức giận thu hồi lại cả đất đai, không cho con người thuê đất nữa, chúng thà không có gì chứ không chịu cho loài người ăn một mình.
Trước tình hình đó, Đức Phật bảo người dân đến điều đình với quỷ cho tậu một miếng đất bằng tấm áo cà-sa. Nghĩa là con người sẽ trồng một cây tre, trên ngọn tre chỉ treo một tấm áo cà-sa, bóng của cà-sa phủ được bao nhiêu diện tích ở mặt đất thì số đất đó là đất của con người sử dụng. Ban đầu quỷ không chấp thuận, nhưng sau khi suy tính, thấy bóng của một chiếc áo cà-sa chẳng bao nhiêu, lũ quỷ bèn nhận lời. Khi người dân trồng xong cây tre, Đức Phật đứng trên ngọn tre tung chiếc áo cà-sa ra, cây tre càng lúc càng cao, áo cà-sa càng lúc càng rộng, bóng của cà-sa phủ đến đâu lũ quỷ phải rút lui đến đấy. Cuối cùng chiếc áo che phủ cả đất đai, lũ quỷ không còn đất để ở, phải rút ra biển.
Bị mất hết đất đai, quỷ vừa tiếc vừa hậm hực tức giận, chúng chiêu tập binh mã vào cướp lại. Nhờ có sự giúp đỡ của Đức Phật nên người dân đã đánh bại tất cả những đợt tấn công của lũ quỷ. Nhận thấy không thể nào đánh thắng loài người, lũ quỷ đành xin Đức Phật rủ lòng thương tưởng, mỗi năm vào những ngày Tết cho chúng trở lại đất liền để viếng thăm mồ mả tổ tiên của chúng. Phật thương tình hứa khả, nhưng để lũ quỷ không vào quấy nhiễu người dân, Đức Phật dạy người dân trồng cây nêu vào dịp Tết để xua đuổi chúng.
Trong trạng cúng tống mộc, chúng ta cũng thấy có câu: “… Hải ngoại ngao du, bất đắc hồi cố, ẩn nặc gia trung, yêu cầu tế tự, phụng sắc Như Lai...”. Nghĩa là các loài ngũ quỷ mộc ương mộc ách nên ra ngoài biển mà ngao du, không được trở lại chỗ cũ để ẩn núp trong nhà mà yêu cầu cúng tế, nên phụng mạng sắc chỉ của Đức Phật. Có thể câu trong trạng tống mộc cũng xuất phát từ điển tích này.
Trong sự tích này còn có một triết lý rất nhân đạo, đó là lòng bao dung độ lượng. Khi đối phương đã thất bại, đã đầu hàng thì phải mở cho họ một con đường sống; hãy mở rộng lòng thương mà khoan dung, tha thứ cho họ, đừng dồn họ vào đường cùng, bế tắc. Tính cách này đã nằm trong huyết mạch của lòng người dân Việt. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tinh thần này được thể hiện qua các triều đại của những vị vua anh minh đã làm cho kẻ thù phải khuất phục, chuyển thù thành bạn.
Nguyên khởi, cây nêu được dựng với ý nghĩa trừ ma quỷ, nhưng ý nghĩa thực của cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam dần trải rộng hơn thế. Theo thời gian, cùng với sự phong phú của các đồ lễ treo trên ngọn cây, cây nêu được coi là cây vũ trụ nối liền đất với trời, do tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ sơ, hàm chứa ý thức về lãnh thổ của người Việt.
Trong xã hội thị tộc, chiếm hữu nô lệ thì cây nêu biểu trưng cho một cộng đồng tộc người, khẳng định địa vực cư trú của cộng đồng đó. Trong các lễ hội, cây nêu là tiêu điểm tập trung, cố kết của tâm thức cộng đồng. Ðối với cư dân nông nghiệp, nông lịch luôn gắn bó với cuộc sống, định hình thời vụ sản xuất và sinh hoạt, lễ hội. Thời điểm cuối năm là thời điểm nông nhàn, chuẩn bị bước vào các hoạt động vui chơi. Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động khác đều dừng lại. Nó tạo nên thế cân bình tuyệt đối trong sự vận hành thay đổi giữa năm cũ và năm mới. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh hoạt vui vẻ, quên đi những ưu phiền của năm cũ. Cây nêu của người Kinh cũng mang triết lý âm dương thông qua những con số Lạc thư và các quẻ kinh Dịch được thể hiện trong các biểu tượng treo trên ngọn cây.
Ngày xưa, cây nêu còn là biểu tượng cho sự uy quyền, nhà nào có quyền thế nhất là nhà đó có cây nêu cao nhất.
Quả thật, tục cây nêu ngày Tết mang một ý nghĩa hết sức cao đẹp. Hiện nay, phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần mất đi trong xã hội hiện đại, và được thay thế với tục chơi cành hoa đào, hoa mai ngày Tết, bày trong nhà. Cây nêu chỉ còn được bắt gặp lác đác tại một số vùng quê, trong cộng đồng các dân tộc thiểu số vùng thượng du Bắc Bộ hay Tây Nguyên. Thành ra cây nêu ngày Tết cùng chịu chung số phận của ông đồ cho chữ: “Ông đồ vẫn ngồi đấy/Qua đường không ai hay”.
Thích Trung Định/BGN