Ngày 1-9-2010, Nghị định 75/2010/NĐ-CP ban hành ngày 12-7-2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa chính thức có hiệu lực thi hành. Việc người dân đốt vàng mã tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử-văn hóa, và nơi công cộng khác sẽ bị phạt tiền, thậm chí việc rải vàng mã trong đám tang cũng sẽ bị xử phạt được quy định tại nghị định này đang tạo ra những ý kiến trái chiều. Để rộng đường dư luận, Đời Sống & Pháp Luật đã có cuộc trao đổi với GS Ngô Đức Thịnh - Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu - Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, về vấn đề này.
Đốt vàng mã là một tập tục
Xin GS cho biết tục lệ đốt vàng mã của người Việt có từ bao giờ?
Cho đến nay, vẫn chưa có một tài liệu nào cho thấy thời điểm xuất hiện việc đốt vàng mã ở nước ta, nhưng chắc chắn điều này đã tồn tại từ hàng trăm năm do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, quan niệm người chết không phải là hết, chia của cho người chết ở ta cũng đã có từ rất lâu đời rồi.
Được biết trong giáo lý đạo Phật không chủ trương đốt vàng mã, song việc đốt vàng mã đang tồn tại như một nghi thức không thể thiếu của người dân trong mỗi dịp lễ quan trọng. Vậy vàng mã có được coi là một sản phẩm của văn hóa tín ngưỡng không, thưa GS?
Không thể đồng nhất Phật giáo với dân tộc, đồng nhất nghi lễ Phật giáo với nghi lễ toàn dân tộc, mà Phật giáo chỉ là một bộ phận, một sắc thái văn hóa trong dân tộc mà thôi. Do vậy không thể áp đặt nghi lễ của Phật giáo cho toàn dân tộc!
Hành động đốt vàng mã là một trong các nghi lễ, mà nghi lễ nào cũng có cơ sở nhận thức và được thực hiện trên một nền tảng quan niệm vững chắc, trở thành một tập quán xã hội.
Tuy nhiên, việc đốt vàng mã cũng nên quy định theo mức độ, đúng với bản chất của nó. Ở nhiều nơi, việc đốt vàng mã đang bị người ta thực hiện một cách thái quá vì cho rằng, dâng cúng càng nhiều thì càng được thánh thần hay người âm phù hộ. Thực chất, đây chỉ là sự phô trương với người trần, hơn thế nữa là để thỏa mãn thói thường con gà tức nhau tiếng gáy, dẫn đến sự lãng phí tiền của một cách không cần thiết, điều này đáng lên án, thậm chí đáng phạt.
Nếu "ép" dân sẽ "nhờn" luật
Dưới góc nhìn của một nhà nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng dân gian, theo GS, việc xử phạt hành vi đốt vàng mã sẽ ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng?
Bạn nghĩ thế nào nếu cấm người dân đi bán buôn trong nền kinh tế thị trường? Cấm người theo đạo Kito ăn bánh thánh và giáo dân Thiên Chúa đi lễ nhà thờ, cấm lễ cầu siêu trong Phật giáo? Nói như vậy để thấy, trong tín ngưỡng có một số nghi lễ cần thiết và việc ngăn cấm thực hiện là một vấn đề khá nhạy cảm. Tuy nhiên làm thế nào để nó không bị lạm dụng, gây lãng phí lại là chuyện khác.
Vậy làm thế nào để tục đốt vàng mã không bị lạm dụng mà vẫn đảm bảo được tập tục, tín ngưỡng của người dân, thưa Giáo sư?
Không thể bằng một sắc lệnh mà có thể cấm ngay được những nghi lễ tín ngưỡng, vấn đề là nhận thức của con người. Theo truyền thống, việc rải vàng mã trong đám tang người chết có ý nghĩa đánh dấu đường cho linh hồn người chết trở về. Nếu đốt vàng mã trong lễ hội, chính quyền tiến hành xử phạt đã khó thì việc xử phạt hành vi rải vàng mã trong đám tang lại hết sức nhạy cảm. Dùng vàng và đồ mã khối lượng nhiều, rải vô tội vạ là hành vi đáng lên án, nhưng nếu lấy lý do làm bẩn môi trường thì không thuyết phục cho lắm. Thành phố đang ngập ngụa rác thải từ nhiều nguyên nhân khác chứ không phải là từ việc rải vàng trong các đám ma.
Để luật pháp đi vào cuộc sống là việc làm cần thiết nhưng cần có thời gian tuyên truyền để người dân nhận thức được vấn đề và có hành vi phù hợp truyền thống chứ không thể tiến hành ngay từ ngày mai được. Chúng ta nên giao trách nhiệm này cho chính những địa phương, đơn vị, cá nhân quản lý di tích, văn hóa và cơ quan tổ chức lễ hội để định hướng, tuyên truyền cho người dân về các nghi thức hành lễ phù hợp với dân gian. Nếu cứ nhất nhất ép ngay vào lề lối, rất có thể sẽ lại nảy sinh tiêu cực, thậm chí người dân sẽ nhờn luật pháp.
Xin cảm ơn Giáo sư!